DUY LỰC NGỮ LỤC QUYỂN HẠ – PHẦN 28

DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN HẠ
(Bài giảng trong các năm (1992 – 1999)
HT. THÍCH DUY LỰC
—-o0o—

Bài giảng trong các năm 1992 – 1999
28.
Khai thị tại Mỹ Quốc từ năm 1995 – 1999
Hỏi: Có nhiều người lúc trước ở Việt Nam thì sự tu cũng khá cao, qua đến đây do đời sống vật chất khiến họ bị lui sụt, vậy có phải do nghiệp không ?
Đáp: Ấy là bị hoàn cảnh lôi kéo, cũng như đứa bé sơ sinh chỉ có tập khí kiếp trước, chưa bị nhiễm tập khí kiếp này, rồi dần dần lớn lên mới nhiễm phải.
Như nội dung nhiều trò chơi điện tử thời nay, tập cho đứa bé có tánh hung dữ, sau này họ trưởng thành, khi có quyền hành trong tay rồi, chẳng biết thế giới sẽ ra sao. Xã hội ngày nay, nhiều hung thủ giết người chỉ có mười mấy tuổi, lái xe thì vô kỷ luật, những người sản xuất đồ chơi chỉ cần thu được phần lợi lộc, không màng đến hậu quả ảnh hưởng đem lại tánh hung dữ cho các cháu.
Còn những nhà đầu tư thì đem chất phế thải, ô nhiễm độc hại, đầu tư tại các nước cần phát triển, chỉ biết đem phần lợi về mình là đủ, ô nhiễm môi trường cũng mặc kệ, chỉ cần không gây ô nhiễm trong nước sở tại của mình là được. Họ lấy danh nghĩa giúp đỡ, đầu tư, viện trợ, thực tế là trút phần ô nhiễm cho người khác.
Hỏi: Quả lắc tự xoay có ý nghĩa như thế nào?
Đáp: Nó xoay theo nguyên lý tự xoay: Ví như điện tử xoay nguyên tử, mặt trăng xoay theo quả đất, quả đất xoay theo mặt trời, mặt trời xoay theo ngân hà, nay Phóng vệ tinh lên trên không cũng xoay theo quỹ đạo … Sức của tâm cũng vậy, chẳng bao giờ ngưng. Nên Kinh
Pháp Bảo Đàn nói “Tất cả đều lay động chẳng tịnh”.
Hỏi: Hiện nay có một số người Thiên Chúa Giáo phản đối Phật Giáo đồ, cho là không đúng, vậy như thế nào ?
Đáp: Chính Phật giáo đổ đối với Phật pháp cũng chỉ hiểu một cách mơ hồ. Trong cuốn Góp Nhặt Lời Phật Tổ và Thánh Hiền, tôi có đề cập đến sự nhận thức của một người linh mục Mỹ nói về Phật giáo, sự hiểu biết của ông ấy còn hơn Phật giáo đồ.
Vì Phật giáo chỉ là giải phẫu tâm linh, còn nhà khoa học là giải phẫu thể xác; thể xác chỉ là chiếc xe chở sinh mạng, chứ chẳng phải chủ sinh mạng, chủ sinh mạng là tâm linh. Cho nên, nhà khoa học muốn tìm hiểu sinh mạng, mà cứ giải phẫu thế xác thì làm sao tìm được?
Muốn tận phải tìm hiểu chủ sinh mạng.
Ví như khoa châm cứu, thời xưa Đạo giáo đã dùng tâm linh phát hiện kinh lạc nơi cơ thể con người, gồm mười bốn kinh lạc và những huyệt vị, nhà khoa học thời nay khi giải phẫu thể xác chỉ thấy thần kinh, không thấy kinh lạc. Dù chẳng thể phát hiện qua ngũ giác quan, nhưng công hiệu của châm cứu liệu pháp thì chẳng thể phủ định, nên trường đại học Mỹ có khoa châm cứu, cũng phải thực hành theo hệ thống kinh, lạc, huyệt do tâm linh phát hiện.
Hỏi: Vì sao Thầy trở thành Tu sĩ?
Đáp: Thuở xưa khi bà nội tôi mất, tôi tự nghĩ tại sao lại có sự chết? Đến khi ba tôi mất thì tôi mới nghĩ sau này tôi cũng phải chết”. Từ đó tôi thường nghĩ rằng sự chết đó có thể giải quyết được không? Sau đó xem kinh Phật, mới biết việc này có thể giải quyết. Tôi bèn phát tâm xuất gia, và bây giờ tôi phát hiện được sanh tử vốn là không! Như tôi đã nói ở trên: Chủ sinh mạng là tâm linh, tâm linh không có sanh tử.
Hỏi: Lúc Thầy xuất gia còn thân phụ thân mẫu không?
Đáp: Tôi còn một người mẹ nhưng không phải mẹ ruột, bà nuôi tôi từ lúc tôi bốn tuổi, mới chết cách đây mấy tháng, còn người mẹ ruột thì mất lúc tôi chưa đầy một tuổi
Hỏi: Thế thì Thầy cảm thấy an lạc không? Cảm thấy có gì là quan trọng không?
Đáp: Chẳng có an lạc hay không an lạc, vì vốn là trống rỗng chẳng có gì cả, thành ra tôi đi đến đâu cũng như vậy thôi. Nếu có cái gì quan trọng thì chẳng phải Tổ sư thiền; luôn cả Tổ sư thiền cũng không phải Tổ sư thiền. Hễ có mục đích là có sở trụ, là chướng ngại. (Sư phụ đã giảng dùng cánh tay dụ cho tâm linh vô sở trụ, lược qua).
Hỏi: Sư phụ tự nói là chỉ được giải ngộ, chưa chứng ngộ thì làm sao giải đáp được?
Đáp: Đã giải ngộ thì tất cả đều giải được.
Hỏi: Con thừa nhận Sư phụ nói về tánh thấy tánh nghe là đúng, sự thấy nghe của mình có lúc không hoàn toàn, nhưng đó chỉ đúng theo logic thôi?
Đáp: Logic chỉ có thể dùng trong không gian ba chiều, có vật thể, thông qua tai mắt. Còn tâm linh là siêu logic, logic chẳng thể biện chứng được; vì logic chỉ có thể chứng tỏ không gian, chẳng thể chứng tỏ thời gian.
Hỏi: Xin Sư phụ kể qua vài nét của ngài Nguyệt Khê?
Đáp: Ngài Nguyệt Khê tốt nghiệp tại trường đại học ở Thượng Hải, rất giỏi về ngoại ngữ Anh, Pháp và thông thạo triết học Đông, Tây phương.
Người biên tập cuốn Nguyệt Khê Ngữ Lục và các tác phẩm của ngài, đem gom lại thành quyển Cội Nguồn Truyền Thừa và Phương Pháp Tu Trì Của Thiền Tông. Tôi rất tiếc vì những đệ tử của ngài sau này trong việc xuất bản, lấy ý mình xen vào , nhiều người đọc không biết, nhưng khi tôi đọc thì biết sự khác nhau: Vì lời nói của người chưa kiến tánh với người đã kiến tánh khác nhau, mà người thường không thể phân biệt được.
Cũng như Kinh Pháp Hoa, do người trứ tác chấp thật có Bồ tát Quán Thế Âm tại núi Phổ Đà, nên trong Phẩm Phổ Môn, người ta in thêm mười hai đại nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm, rồi chấp thật có một vị Bồ tát Quán Thế Âm ngồi trên chiếc thuyền tuần tra nơi biển, hễ gặp ai cầu cứu thì hiện thân đến cứu giúp, mà chẳng biết là do tự tánh Quán Âm tự cứu, chỉ vì mọi người tin không nổi thôi.
Hỏi: Người thời nay có phương tiện đầy đủ, đáng lẽ dễ kiến tánh hơn, tại sao lại khó hơn đời xưa?
Đáp: Đó người thời nay trí thức logic quá mạnh, cái gì cũng phải hợp logic, nhưng tâm linh thì chẳng thể hợp với logic, vì logic là nghịch với tâm linh, chướng ngại tâm linh hiển hiện. Tức là: Hiển thịnh thì ẩn suy; thời nay do hiển quá thịnh nên ẩn phải suy.
Hỏi: Ở nước Mỹ, người ta cảm thấy đi đến Đạo Phật chẳng thể giải thoát?
Đáp: Đạo Phật thời nay rất phức tạp, nhiều người dùng chủ quan của mình để giải thích Phật pháp, ấy đều nghịch với giáo pháp của Phật Thích Ca. Bởi vì Phật Thích Ca chẳng kiến lập chân lý, vừa nói ra liền phủ nhận, nay các nhà Phật học lại cho lời nói của Đức Phật là chơn lý, nói thế giống như ngoại đạo rồi.
Hỏi: Trên đường tu hành, chúng con khi thì hăng hái, khi thì giải đãi, làm thế nào để khắc phục cái vọng tri của mình?
Đáp: Lỗi tại có tri giác. Kinh Lăng Nghiêm nói “Tri giác nãi chúng sanh Nay hãy nhìn qua thế giới vạn hữu, con người cho con cọp, beo, sư tử là ác thú, nhưng họ không bao giờ giết hại đồng loại, và chỉ giết hại loài vật khác khi lúc đói khi ăn no rồi thì không. Còn con người, ngày thường thì giết hại loài khác như gà, vịt, cá, heo … ngoài ra còn giết hại đồng loại, như trong lúc chiến tranh, ấy đều là hành động theo sự hiểu biết của mình, rồi lập ra chủ trương của mình, tức dùng bộ não làm chủ.
Bộ não phải nhờ ngũ giác quan: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, con mắt thì muốn nhìn đẹp, chê xấu; lỗ tai thì thích tiếng khen, ghét tiếng chê; lỗ mũi thì muốn ngửi cái thơm; không chịu cái thúi; lưỡi thì muốn ăn cái ngon, chê cái dỡ, tất cả đều theo bộ não mà thỏa mãn dục vọng của mình, đến khi không thể thỏa mãn thì giết hại.
Đức Phật là muốn cho Phật tánh làm chủ, chấm dứt chủ quyền của bộ não. Tu hành đạt đến mục đích cuối cùng, là để Phật tánh làm chủ. Đối với những người chẳng phải vì mục đích này, hoặc chỉ do hứng thú thì lúc có hứng thì siêng năng, hết hứng thì giải đãi, có khi do bị ngoại cảnh lôi kéo khiến giải đãi v.v… nên phải tập dần dần.
Hỏi: Trong quyển Trung Phong Pháp Ngữ đề ra bốn điều dễ và bốn điều khó, nói bốn điều dễ là để cho nhập đạo, bốn điều khó để cho tiến lên con đường đạo, là như thế nào?
Đáp: Bốn điều dễ là để tạo lòng tin, có lòng tin mới có thể nhập đạo. Vì TIN là mẹ của công đức. Nhưng hễ chấp vào chỗ đó thì bốn điều dễ sẽ đưa mình xuống địa ngục! phải giải quyết bốn điều khó rồi thì bốn điều dễ này là dễ, nếu không thì bốn điều dễ này là dễ xuống địa ngục vậy.
Hỏi: Tại sao đã có Thiền tông rồi lại còn có Mật tông?
Đáp: Mật tông lúc ban đầu kỳ thật là của tà đạo, sau khi Phật nhập Niết bàn mấy trăm năm, do ngài Long Thọ, Tổ thứ 14 của Thiền tông chỉnh sửa lại, khiến những tà đạo đương thời trở về chánh pháp, nên ngài làm Tổ cho sáu môn phái.
Hỏi: Thế nào là bình thường tâm?
Đáp: Bình thường tâm tức tâm như hư không chẳng dính mắc, là nói người đã kiến tánh, dù cho bom nguyên tử làm nổ tung trái đất này, tất cả đều tiêu tan, nó vẫn bình thường. Chứ không phải trong cuộc sống hằng ngày trải qua một cách bình thường gọi là bình thường tâm. Tâm của con người chưa kiến tánh thì chẳng thể bình thường được, ấy là điên đảo.
Hỏi: Có người hỏi Thiền sư Nam Tuyền: “Dưới pháp hội của Ngũ Tổ có năm trăm vị, người nào cũng thông thái và giỏi pháp lý. Vậy tại sao ngài chẳng truyền y bát cho người khác, mà lại truyền cho Lục Tổ Huệ Năng?”
Ngài Nam Tuyền đáp: “Sở dĩ truyền cho Huệ Năng, vì ngài không biết Phật pháp, nhưng biết đạo”. Nghĩa này là thế nào?
Đáp: Đức Phật trong Kinh Kim Cang nói: “Chẳng có pháp gọi là Phật pháp”, “pháp, phi pháp, phi phi pháp”, “Ai nói ta có thuyết pháp là phỉ báng Phật”, “Vô pháp khả thuyết, gọi là thuyết pháp” … Không có pháp thì làm sao biết Phật pháp? Vì ngộ được vốn là chẳng có pháp, nhưng chẳng phải phủ định tất cả pháp, pháp nào cũng y như cũ; cái tách vẫn là tách, quả cam vẫn là cam, chứ không có ý của cá nhân xen vào.
Hỏi: Vậy thế nào là đạo?
Đáp: Cũng vậy thôi. Thiền tông là hiểu thiền, hiểu đạo cũng không cho. Đạo là đường đi, muốn ngộ đến cuối cùng thì phải đi đúng đường lối; ví như tham Tổ sư thiền, đường lối thực hành tức là đạo.
Đạo khả đạo, phi thường đạo. Đạo mà có thể nói được thì chẳng phải là đạo, vì không có nhất định. Tất cả nói được đều chỉ là phương tiện, là cơ xảo. Tám mươi bốn ngàn pháp môn là tám mươi bốn ngàn con đường; đạo của Tịnh độ khác, đạo của Thiền tông khác … Dù đường đi mỗi mỗi khác nhau, chỗ đến thì chẳng khác.
Hỏi: Ngoài công án ra, có cách nào cho người thời nay tu hành được thích hợp không ?
Đáp: Công án không bị thời gian, không gian hạn chế, khác hơn khoa học. Khoa học dần dần tiến bộ, còn công án là để phát hiện Phật tánh, Phật tánh thì không thể tiến bộ, vì hễ có tiến bộ là pháp sanh diệt.
Ví như công án “uống trà” của Tổ Triệu Châu:
Có người đến gặp Triệu Châu, ngài hỏi:
– Trước đây đã có đến đây chưa ?
– Dạ chưa.
– Uống trà đi !
Người khác đến, ngài lại hỏi:
– Trước đây đã đến lần nào chưa ?
– Dạ có.
– Uống trà đi!
Viện chủ hỏi: Sao người nào ngài cũng bảo đi uống trà?
Ngài nói: Viện chủ!
– Dạ?
– Uống trà đi.
Bất kế thời xưa, thời nay, thuyết pháp phải tùy cơ, trên phù hợp ý Phật, dưới khế hợp đương cơ, phù hợp ý Phật chẳng có tiến bộ, khế hợp đương cơ cũng chẳng có tiến bộ.
Hỏi: Đường lối tham thiền chỉ có một, nhưng trong lúc công phu, vì căn cơ khác nhau, mỗi người đi mệt lối rẻ, vậy là thế nào?
Đáp: Thoại đâu dù có muôn ngàn, nhưng đều chỉ là một cái không biết; tất cả đều là tác dụng kích thích cái không biết, và khán thoại đầu. chỉ là nhìn vào chỗ không biết mà thôi.
Hỏi: Người tu Tồ sư thiền, có thọ Bồ tát giới không?
Đáp: Có. Đại thừa và Tối thượng thừa đều có thọ giới Bồ tát. Vì Đại thừa là Bỗ tát thừa, Tu sĩ Đại thừa phải thọ giới Bồ tát, nếu không thì chưa phải Đại thừa. Cư sĩ thì thọ hay không thọ cũng được. Còn Tiểu thừa (Thanh văn thừa) thì không thọ giới Bồ tát, chỉ thọ giới Tỳ-kheo mà thôi.
Hỏi; Người kiến tánh rồi còn sanh tử không?
Đáp: Thiền sư Pháp Diễn là thầy của ngài Đại Huệ và Viên Ngộ. Lúc đó ba huynh đệ Viên Ngộ đều tưởng mình đã ngộ, nhưng thầy lắc đầu không ấn chứng. Ba huynh đệ rất tức giận, xin ra đi. Thiền sư Pháp Diễn nói: “Sau này bệnh nặng mới biết ý của thầy”.
Vì hễ ngộ thì giải thoát được sanh tử, chưa ngộ triệt để, đến khí bệnh nặng, dùng sự ngộ đối trị không nỗi, lúc đó mới nhớ lại lời của thầy rồi quay trở về. Ngài Viên Ngộ quay về được một tháng thì kiến tánh triệt để.
Hỏi: Tại sao Đại Thông Trí Thắng Phật mười kiếp ngồi đạo tràng mà chẳng thành Phật đạo?
Đáp: Đại Thông Trí Thắng Phật là Bích Chi Phật, tu theo Trung thừa, vì chấp ngồi nên chẳng thể thành Phật, chỉ chứng quả viên giác.
Hỏi: Hành giả tham Tổ sư thiền có phải gấp rút đề câu thoại để thúc đẩy nghi tình không?
Đáp: Không có lấy ý mình để thúc đấy gì cả, chỉ cần đừng nổi lên một niệm nào thì đã đủ rỗi. Bất cứ nỗi lên niệm gì đều là tâm trộm cắp, ngài Ẩn Am gọi đó là “Dụng tâm sai lầm”. Tổ nói:
– Người tham thiền rất kỵ dụng tâm sai lầm: Minh tâm kiến tánh là dụng tâm sai lầm, thành Phật thành Tổ là dụng tâm sai lầm; xem kinh giảng giáo là dụng tâm sai lầm, đi đứng nằm ngồi là dụng tâm sai lầm, ăn cơm ăn cháo là dụng tâm sai lầm, đại tiện tiểu tiện là dụng tâm sai lầm, nhất động nhất tịnh, nhất vãng nhất lai là dụng tâm sai lầm. Lại còn có một chỗ là dụng tâm sai lầm mà tôi không đám nói trắng ra. Tại sao? “Nhất tự nhập công môn, cửu ngưu xe bất xuất”, ý nói bất cứ nổi lên niệm gì, đều là dụng tâm sai lầm. Đến chỗ nhất tâm không nổi lên, vẫn còn là vô thỉ vô minh! Nhưng công phu đến chỗ thoại đầu là sắp kiến tánh, mà nếu ngồi tại chỗ vô tâm đó thì còn xa lắm.
Hỏi: Thế nào là Phật giáo, Phật pháp, Phật học ?
Đáp: Phật giáo là giáo lý của Phật, Phật pháp là pháp thực hành giáo lý của Phật, để đưa mình đạt đến giải thoát tất cả khổ. Phật pháp mặc dù giúp cho sự giải thoát nhưng phải học, nên gọi Phật học.
Hỏi: Thế trí biện thông có phải là một trong Bát nhã?
Đáp: Thế trí biện thông là chướng ngại cho sự kiến tánh, vì người thế trí biện thông chấp vào thế trí của chính mình, cho là cao nhất mà không buông bỏ được, nên thành chướng ngại.
Hỏi: Thế nào là vạn pháp quy tâm?
Đáp: Ấy là người có tư tưởng chấp thật mới nói như vậy. Bản lai diện mục của bản tâm không có tương đối, Vạn pháp là tâm, tâm là vạn pháp, vạn pháp với tâm không phải có hai. Nếu tâm là tâm, vạn pháp là vạn pháp, tức có hai, là tương đối.
Cho nên, Phật nói tất cả đều do tâm tạo. Vì tâm khắp không gian, khắp thời gian thì vạn pháp đều ở trong tâm, không có cái nào ở ngoài tâm, nên nói: “Ngoài tâm chẳng có pháp”. Vậy tại sao còn nói vạn pháp quy tâm “Những người nói vạn pháp quy tâm là tư tưởng chấp thật, còn nằm trong tương đối.
Hỏi: Tại sao Phật nói nhiều kinh?
Đáp: Vì muốn phá cái biết của bộ não, chư Tổ cũng vậy. Cái biết của bản tâm luôn luôn ứng dụng, nhưng không phải cái biết và không biết của bộ óc (ý thức). Vì cái biết và không biết của ý thức làm chướng ngại cái biết của bản tâm. Cho nên, sát na lìa ý thức là bản tâm hiện ra.
Người tham học mới vào cửa, Lâm Tế liền hét, người tham học mới vào cửa, Đức Sơn liền đánh, những hành động của Tổ là muốn chặn ngang nguồn suối ý thức. Nếu lúc đó lìa được ý thức thì ngay đó kiến tánh. Còn lìa ý thức chưa được thì phải phát nghi (không hiểu), như Lâm Tế bị Hoàng bá đánh ba lần phát đại nghi, rồi sau này ngộ triệt để. Tất cả công án, thoại đầu của chư Phật chư Tổ đều vậy. Ngộ là hiện lên bản tâm của mình, chứ không phải ngộ đáp án của câu thoại hay công án.
Hỏi: Chánh biến tri và vô sư trí là như thế nào?
Đáp: Chánh biến tri là trí Bát Nhã, vô sư trí là trí không do ai dạy, Phật Thích Ca nói là Pháp Bản Trụ, nó tự như vậy, không phải do thầy truyền cho.
Hỏi: Ngũ thời bát giáo là gì?
Đáp: Ngũ giáo ở Trung Quốc có 5 hệ phái :Tố Sư thiền, Giáo môn, Tịnh Độ, Mật tông, Luật tông.
Phật thuyết pháp chia ra làm ba giáo thời:
– Giáo thời thứ nhất: Khi Phật mới thành đạo, vì muốn phá chấp của phàm phu và tà đạo, nên nói các pháp tứ đại ngũ uẩn để sáng tỏ không thật, gồm những bộ kinh Tứ A Hàm: Tăng Nhất A Hàm, Trường A Hàm, Trung A Hàm và Tạp A Hàm (Tiểu thừa).
– Giáo thời thứ hai: Phật vì phá chấp pháp của Tiểu thừa, nên thuyết tất cả pháp đều không thật, là những bộ Kinh Bát Nhã.
– Giáo thời thứ ba: Phật vì phá sự chấp có của Tiểu thừa, và phá chấp không của Đại thừa, nên thuyết pháp chẳng có chẳng không, để sáng tỏ nghĩa bất nhị của trung đạo, như những bộ Kinh Thâm Mật, Pháp Hoa …
Đây là theo thời gian mà chia ra làm ba thời.
Còn 3 loại khác biệt:
– Giải thích các pháp có là đệ nhất thời.
– Giải thích các pháp không là đệ nhị thời.
– Giải thích giáo pháp trong đạo bất nhị là đệ tam thời.
Ba thời này không phải y theo thời gian, chẳng kể thời gian trước hay sau, mà chỉ phân theo nghĩa loại, gọi là 3 thời giáo.
Không có bát giáo, bát khổ thì có, từ tam khổ cho đến vô lượng khổ.
Hỏi: Phiền não có hai:
– Nhuận nghiệp vô minh, nhuận là thấm nhuần là phiền não quá khứ.
– Nhuận sanh vô minh là đi đầu thai nơi tình thức, sanh khởi yêu ghét đối với cha mẹ.
Hai phiền não này vốn không có tự tánh, nếu ngộ được tự tánh thì chẳng có việc gì, tức là ngay đó không tịch thì ai còn có phiền não?
Đáp: Không phải chỉ có hai pháp này không có tự tánh, mà tất cả pháp đều không có tự tánh; chúng sanh và Phật cũng không có tự tánh. Tức là chẳng pháp nào mà có tự tánh? Vì tự tánh vô sở hữu, tất cả pháp đều là tâm, tâm đã vô sở hữu thì các pháp đều vô sở hữu.
Thiền Sư Bổn Tịnh họ Trương, quê Hán Châu, xuất gia lúc còn nhỏ, được Lục Tổ ấn chứng nơi Tào Khê, rồi ẩn ở núi Tư Phong. Sau này, được nhà vua mời vào hoàng cung đàm luận với các vị cao Tăng.
Thiền Sư Viễn hỏi: ý của Thiền sư cho thế nào là đạo?
Sư nói: Vô tâm là đạo.
Viễn nói: Đạo vì tâm mới có, đâu thể nói vô tâm là đạo?
Sư nói: Đạo vốn vô sanh, bởi tâm mới gọi là đạo. Tâm chỉ là tên gọi, nếu tâm thật có thì đạo cũng thật có, tâm đã không tìm ra thì đạo do đâu mà lập? Cả hai đều hư vọng, thảy là giả danh.
Viễn nói: Thiền sư thấy có thân tâm là đạo hay không?
Sư nói: Thân tâm của sơn Tăng vốn là đạo.
Viễn nói: Vừa mới nói vô tâm là đạo, nay lại nói thân tâm vốn là đạo, họ chẳng phải ngược nhau ư?
Sư nói: Vô tâm là đạo, tâm diệt, đạo vô; tâm và đạo nhất như. Nếu nói vô tâm là đạo, thân tâm vốn là đạo, đạo cũng vốn là thân tâm; thân tâm vốn là không thì tìm cội nguồn của đạo cũng chẳng có.
Viễn nói: Thấy hình tướng bề ngoài của Thiền sư rất nhỏ bé mà lại hiểu lý này.
Sư nói: Đại đức chỉ thấy tướng của sơn Tăng, chẳng thấy vô tướng của sơn Tăng, kẻ thấy tướng là Đại đức cảm thấy. Kinh nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, nếu thấy tướng phi tướng tức là thấy đạo. Nếu cho tướng là thật, cũng chẳng thể thấy đạo.
Viễn nói: Nay Thiền sư ở nơi tướng mà thuyết vô tướng ư!
Sư nói: Kinh Duy Ma Cật nói: “Tứ đại vô chủ, thân cũng vô ngã thì sở thấy cùng đạo tương ưng. Đại đức! Nếu cho tứ đại có chủ là ngã, nếu có ngã kiến thì suốt kiếp chẳng ngộ đạo vậy.
Viễn nghe xong tâm chẳng còn thắc mắc. Sư có kệ rằng:
Tứ đại vô chủ, lại như thủy,
Gặp cong gặp thẳng chẳng bỉ thử.
Hai chỗ tịnh uế chẳng sanh tâm,
Thông nhãn đâu từng có ý khác.
Gặp cảnh chỉ như thủy vô tâm,
Tung hoành trên đời có việc gì?
Thiền sư Trí Minh hỏi: Nếu vô tâm là đạo thì ngói đá vô tâm cũng là đạo, lại nói thân tâm vốn là đạo, thế thì tứ sanh thập loại có thân tâm cũng là đạo?
Sư nói: Nếu hiểu theo kiến, văn, giác tri thì càng xa với đạo, là kẻ cầu kiến, văn, giác tri, chứ chẳng phải kẻ cầu đạo. Kinh nói: “Vô nhãn, như tỷ, thiệt, thân, ý”, lục căn còn không thì kiến, văn, giác tri do đâu mà kiến lập? Tìm nguồn đã chẳng có thì chỗ nào còn tâm? Đâu thể đồng với cây cỏ ngói đá!
Trí Minh bịt miệng.
Sư có kệ rằng:
Kiến, văn, giác tri vô chướng ngại,
Thanh, hương, vị, xúc thường tam muội.
Như ở nơi “không” đều sanh ra,
Chẳng lấy chẳng xả chẳng yêu ghét.
Nếu nơi tiếp xúc vốn vô tâm,
Mới được gọi là Quán Tự Tại.
Thiền sư Chân hỏi: Đạo đã vô tâm, vậy Phật có tâm chăng? Phật tới đạo là một hay là hai?
Sư đáp: Chẳng một cũng chẳng hai.
Hỏi: Phật độ chúng sanh là có tâm, đạo chẳng độ người là vô tâm; một độ một chẳng độ thì đâu thể chẳng hai?
Sư đáp: Nếu nói Phật độ chúng sanh, đạo thì chẳng độ ấy là Đại Đức vọng sanh nhị kiến, còn sơn Tăng không phải vậy! Phật là hư danh, đạo cũng vọng lập, cả hai đều chẳng thật, thảy đều là vọng sanh. Trong một cái giả làm sao phân ra làm hai?
Hỏi: Phật với đạo tuy là giả danh, thì giả danh này ai lập? Nếu có kẻ lập thì đâu thể nói không?
Sư đáp: Phật với đạo bởi tâm mà lập, tuy lập nhưng tâm vẫn là không, tâm đã là không, liền ngộ cả hai đều chẳng thật, biết như mộng huyễn thì ngộ vốn không, cưỡng lập hai tên thật với giả, ấy là kiến giải của Nhị thừa.
Do đó, Sư thuyết kệ vô tu vô tác rằng:
Thấy đạo mới tu đạo,
Chẳng thấy làm sao tu?
Tánh đạo như hư không,
Hư không lấy gì tu?
Quán khắp người tu đạo,
Vạch lửa tìm bọt nước.
Thấy xem hát múa rối,
Dây đứt hết cả thôi.
Thiền sư Pháp Không hỏi: Phật với đạo đều là giả danh, vậy mười hai phần giáo cũng không phải thật. Tại sao các tôn túc xưa kia đều nói tu đạo?
Sư đáp: Đại Đức hiểu lầm ý người xưa rồi, đạo vốn vô tu mà Dại Đức cưỡng tu! Đạo vốn vô tác, mà Đại Đức cưỡng tác! Đạo vốn vô sự, mà lại cưỡng sanh nhiều sự, đạo vốn vô tri, mà cưỡng sanh nhiều tri. Kiến giải như thế, trái ngược với đạo. Các tôn túc xưa chẳng phải như thế, chỉ vì Đại đức không hiểu thôi, suy nghĩ kỹ xem!
Sư có kệ rằng:
Đạo thể vốn vô tu,
Vô tu tự hợp đạo.
Nếu khởi tâm tu đạo,
Người ấy chẳng hiểu đạo.
Bỏ mất tánh nhất chân,
Lại vào chỗ náo nhiệt.
Bổng gặp người tu đạo,
Tốt nhất chớ hướng đạo.
Thiền sư Am hỏi: Đạo đã giả danh, Phật cũng vọng lập, mười hai phần giáo dùng để thuyết Pháp độ sanh, tất cả đều vọng thì lấy gì độ sanh?
Sư đáp: Vì có vọng nên mới lập chân để đối trị cái vọng, nay truy tìm tánh vọng vốn không thì chân cũng đâu có? Nên biết chân vọng đều là giả danh, hai việc đối trị với nhau nên chẳng thật thể. Suy tìm cội gốc thì tất cả đều không.
Hỏi: Đã nói tất cả đều vọng, vọng cũng đồng chân, chân vọng chẳng khác, vậy là vật gì?
Sư đáp: Nếu nói vật gì thì vật gì cũng vọng, khi nói không tương tự chẳng so sánh, đường ngôn ngữ dứt, như chim bay trên hư không, chẳng có dấu vết.
Thiền sư Am cảm thấy hổ thẹn kính phục. Sư có kệ rằng:
Suy chân chân vô tướng,
Tìm vọng vọng giả đanh.
Ngộ đạo cũng như thế,
Rốt cuộc chỉ là vậy.
Thiền sư Đại Tánh hỏi: Lời Thiền sư rất vi diệu, chân vọng đều diệt, Phật đạo đồng quy, tu hành tánh không, nên tướng chẳng thật. Thế giới như huyễn, tất cả giả danh, lúc hiểu theo như thế, chẳng phải đoạn dứt hai gốc thiện ác của chúng sanh ư?
Sư đáp: Hai gốc thiện ác bởi tâm mới có, tìm tâm có thì gốc mới có, suy tâm đã không thì gốc do đâu mà lập? Kinh nói: “Pháp thiện và pháp bất thiện từ nơi tâm hóa sanh, thiện ác nghiệp duyên vốn chẳng có thật”.
Sư có kệ rằng:
Thiện cũng từ tâm sanh
Ác cũng chẳng lìa tâm.
Thiện ác là ngoại duyên,
Nơi tâm thật chẳng có.
Bỏ ác về chỗ nào?
Lấy kiến để ai giữ?
Than ôi! Người giữ kiến,
Phan duyên chạy hai đầu.
Nếu ngộ tâm vốn không,
Mới biết trước lỗi lầm.
Có Đại thần hỏi: Thân này từ đâu đến, trăm năm sau đi về đâu?
Sư đáp: Như người lúc mơ từ đâu đến, lúc thức tỉnh đi về đâu?
Hỏi: Lúc mơ chẳng thể nói không, lúc thức tỉnh chẳng thể nói có. Dù có nhưng vô vãng lai, mà chẳng xứ sở.
Sư đáp: Thân của sơn Tăng này cũng giống như mộng.
Khai thị kệ rằng:
Đời người như trong mộng,
Trong mộng thật náo nhiệt.
Bổng giác vạn sự như,
Đồng như người mới thức,
Người trí ngộ việc mộng.
Kẻ mê tin mộng thật,
Tỉnh mộng như là hai.
Khế ngộ thì chẳng khác,
Phú quí với bần tiện,
Chẳng có đường phân biệt.
Năm thứ 2 niên hiệu Thượng Nguyên nhà Đường. Sư viên tịch, vua ban hiệu Đại Hiển Thiền Sư.
Hỏi: Nếu người ta chỉ dạy người khác tin cõi Phật Di Đà và khuyến khích niệm danh hiệu Phật A Di Đà, không còn pháp nào khác nữa. Vậy thì như thế nào?
Đáp: Phật có quy định cho người thuyết pháp là đại khai duyên giải, tức giải ngộ tất cả các pháp đều không có khác, nếu không thì lọt vào một bên, gọi là biên kiến ở trong 5 năm thứ ác kiến. Nhiều người lọt vào biên kiến mà tự mình không biết. Nên Ngài Bá Trượng nói:
“Nếu Pháp sư thuyết pháp chỉ giảng được một câu hay hai câu, là nằm trong tương đối, thì Pháp sư đó bị tội địa ngục, nếu giảng thấu ba câu, mà người nghe hiểu lầm là lỗi của người nghe, không đính dáng với Pháp sư”.
Đức Phật trong Kinh Pháp Hoa quy định tư cách pháp sư giảng kinh: Nếu Pháp sư không biết mà giảng bậy bạ, gọi là cuồng vọng thuyết pháp, bị tội địa ngục. Như Pháp sư thuyết pháp không người nào tin thì pháp sư đó không có tội, vì không hại đến ai. Ngược lại, người tin nhiều chừng nào thì pháp sư bị tội lớn chừng nấy.
Hỏi: Có chỗ nói bát giáo là: Tạng Giáo, Thông Giáo, Biệt Giáo, Viên Giáo, Bí Mật Giáo, Tiệm Giáo, Đốn Giáo, Bất Định Giáo. Vậy những thứ này như thế nào?
Đáp: Những thứ này là do tông đó chia ra như vậy, chứ Phật Giáo không chia. Như trong Kinh Lăng Già có chia theo căn tánh của chúng sánh, gồm có: Thanh Văn chủng tánh, Duyên Giác chủng tánh, Bồ Tát chủng tánh, Bất định chủng tánh, Ngoại đạo chủng tánh.
Vừa rồi nói giáo pháp tam thời do có nghĩa khác biệt mới chia làm tam thời theo thời gian, đó là người đời sau chia ra tổng quát, để các tông phái nào cũng đều thích hợp.
“Đốn, tiệm, biệt (thiên), viên”, những thứ này có thể còn có nghĩa, kỳ thật không có nghĩa để kiến lập. Kinh liễu nghĩa đều bao gồm “Đốn, tiệm, biệt, viên”, như năm quyển trước của Kinh Lăng Nghiêm tiếp người thượng căn, gần như pháp đốn; còn năm quyển sau tiếp người trung, hạ căn. Mà bao gồm hết gọi là viên, nghiêng về mê gọi là biệt, tiệm tu và đốn ngộ gọi là đốn tiệm. Bất cứ quyển kinh liễu nghĩa nào cũng bao gồm đầy đủ.
Tạng Pali của Tiểu thừa không có Đại thừa, mà lại không nhìn nhận có Đại thừa.
Kinh Hoa Nghiêm bao gồm lục tướng (đồng, dị, tổng, biệt, thành, hoại). Ở trong lục tướng chia ra làm 2: Sai biệt và bình đẳng. Tướng thành, tướng đồng và tổng tướng thuộc về bình đẳng; còn tướng biệt, tướng dị và tướng hoại thuộc về sai biệt.
Hỏi: “Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, Tối Thượng thừa”, lối chia này của người Tối Thượng thừa. Như vậy người Tiểu thừa có công nhận lối chia này không?
Đáp: Lối chia này không phải do Phật Thích Ca chia, mà là do người đời sau. Phật Thích Ca ban đầu thuyết liễu nghĩa, nhưng người nghe không chấp nhận được, nên phải thuyết bất liễu nghĩa, rồi mới thuyết liễu nghĩa.
Tam thừa giáo là đối tượng khác nhau, ban đầu phá chấp của phàm phu và tà đạo, thời thứ nhì phá chấp của Tiểu thừa, giáo thời thứ ba phá chấp Đại thừa.
Phật thuyết pháp là để khế hợp với căn cơ, chứ không phải có chia. Những việc này là những giai đoạn, Đại thừa không phải thật, vì Phật cũng phủ định Nên Phật nói: “Ta 49 năm thuyết pháp, chưa từng nói một chữ”.
Tất cả lời của Phật nói ra liền phủ định, những người dịch kinh chấp có pháp thật, là vì không hiểu căn bản Phật pháp, cũng có ý của mình xen vào.
Như tông Thiên Thai, đến Tổ thứ ba là Trí Giả đại sư mới hoàn thành đầy đủ giáo lý của tông Thiên Thai. Trí Giả đại sư ở trên núi Thiên Thai, nên người ta gọi là tông Thiên Thai. Tông Hoa Nghiêm cũng vậy, đến đời Hiền Thủ đại sư mới hoàn thành giáo lý của tông Hoa Nghiêm, vì Tổ thứ ba tông Hoa Nghiêm là Hiền Thủ, nên người ta gọi là tông Hiền Thủ.
Tông Thiên Thai căn cứ Kinh Pháp Hoa để tu , cũng gọi là Pháp Hoa Tông. Tông Hiền Thủ căn cứ Kinh Hoa Nghiêm, cũng gọi là Hoa Nghiêm tông, đều là kinh liễu nghĩa. Nói về giáo lý đầy đủ phong phú, thì Kinh Hoa Nghiêm hơn Kinh Pháp Hoa.
Hỏi: Tổ Sư thiền có câu thoại đầu làm phương tiện, tông Hiền Thủ có kinh Hoa Nghiêm để tu, vậy nên bỏ và lấy cái nào? Cái nào hơn?
Đáp: Chẳng có bỏ và lấy cái nào cả, cũng chẳng có cái nào hơn cái nào. Pháp thiền của tông Hoa Nghiêm gọi là Pháp Giới Quán Thiền, chia làm 4 loại: -Lý pháp giới -Sự pháp giới -Lý sự vô ngại pháp giới -Sự sự vô ngại pháp giới.
Sau 49 năm thuyết pháp, trong hội Linh Sơn, Đức Phật đưa lên cành hoa, Ngài Ma Ha Ca Diếp mỉm cười, lúc đó Thiền tông ra đời, còn gọi là pháp thiền trực tiếp, cũng gọi pháp Tổ Sư thiền.
Tổ Bồ Đề Đạt Ma đem Tổ Sư thiền qua Trung Quốc truyền cho Huệ Khả … sau Lục Tổ Huệ Năng mới có năm phái thiền, đều là Tổ Sư thiền, nhưng mỗi gia phong có khác, mà ngộ đạo thì không khác. Như Lâm Tế dạy người tham học, vô cửa liền hét, Đức Sơn vô cửa liền đánh, với mục đích niêm hoa thị chúng của Phật và gia phong của chư Tổ đều không khác.
Hỏi: Trung thừa dùng kinh nào để tu?
Đáp: Trung thừa dùng Thập Nhị Nhân Duyên, nên gọi là Duyên Giác, vì do nhân duyên mà được ngộ đạo. Lúc họ ngộ đạo mà không có Phật thì gọi là Độc Giác, họ không cần kinh điển, quán vũ trụ vạn hữu có thành, trụ, hoại, không hay sanh, trụ, dị, diệt.
Hỏi: Thập Nhị Nhân Duyên ở trong kinh nào?
Đáp: Thập Nhị Nhân Duyên không ghi ở trong kinh nào, nhưng tất cả kinh nào cũng có, vì đó là nhân duyên. Phật pháp là do nhân duyên hòa hợp nên sanh, nhân duyên tan thì diệt. Phật pháp nói đến nhân duyên, nhưng nhân duyên là tánh không, là phương tiện để phá chấp của tà đạo và Tiểu thừa.
Ngưỡng Sơn thí dụ: Lục căn như căn nhà có sáu cửa sổ giữa nhà thắp một cây đèn, ánh sáng rọi ra sáu cửa sổ ra ngoài. Tiểu thừa đem màng đen che sáu cửa sổ, để cho ánh sáng khỏi tiếp xúc cảnh ngoài, có khi cũng có thể ánh sáng lọt ra ngoài. Tối Thượng thừa khỏi cần che cửa số, chỉ cần tắt cây đèn là xong, thì đâu còn ánh sáng để tiếp xúc bên ngoài. Cửa sổ vẫn y nguyên, và ánh sáng trong nhà và ánh sáng ngoài nhà đều giống nhau.
Hỏi: Nói là từ chỗ không có bắt đầu, rồi đến chỗ không cuối cùng. Nhung Phật Giáo chia ra nhiều thừa (Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, Tối Thượng thừa). Như vậy việc ấy như thế nào?
Đáp: Phật thuyết pháp vừa xong liền phủ định không có thừa nào cả. Thiền Sư Bổn Tịnh nói: “Phật còn không có, Tâm cũng không”. Giáo pháp là đề hiển bày tâm, nếu tâm còn không thì hiển bày cái gì?
Hỏi: Sư Phụ nói: Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, chỉ có Tối Thượng thừa tham thoại đầu, công án … mà sao con thấy cái nào cũng giống nhau, phải không?
Đáp: Phải, cuối cùng cái nào cũng đều giống nhau. Vì hỏi sự khác biệt của các thừa, nên Phật dùng phương tiện để giải thích, cuối cùng Phật đã phủ định. Nếu đến chỗ cuối cùng thì chẳng có cái gì, như hư không vô sở hữu mà dung nạp tất cả, dùng hư không để thí dụ tâm mình cũng vô sở hữu. Tâm đã vô sở hữu thì lấy cái gì để lập ra giai cấp?
Ông đã có tư tưởng chấp thật, tôi giải thích chỗ cuối cùng là vô tu vô chứng, Bồ Đề viên mãn thì không tu không chứng. Không tu làm sao có giai cấp, có bậc Trung thừa, Đại thừa? Làm sao có tu chứng?
Hỏi: Trong kinh nói có tám mươi bốn ngàn pháp môn để tu sao Thầy chỉ dạy một pháp môn?
Đáp: Một pháp môn cũng bao gồm tất cả pháp môn. Pháp môn nào cũng đều muốn hiển bày cái Tâm, Tổ sư thiền là pháp thiền trực tiếp, đi con đường thẳng, những pháp kia là đi con đường gián tiếp, nhưng cuối cùng cũng từ nghi đến ngộ. Cho đến Tịnh Độ và các pháp thiền Đại thừa cũng vậy. Còn thiền Tiểu thừa chưa ngộ triệt để, vì họ ngộ rồi còn chấp cái ngộ, nên gọi là Niết Bàn Tiểu thừa.
Nói tám mươi bốn ngàn pháp môn chỉ là ước số, chứ không phải thật nhất định có tám mươi bốn ngàn pháp môn. ở Trung Quốc gồm năm phái: Thiền, Tịnh, Giáo, Luật, Mật.
Hỏi: Như Xã hội văn minh và xã hội kém văn minh thì Pháp môn Tối Thượng thừa thích hợp cho xã hội nào?
Đáp: Đa số người phương Tây thích tìm hiểu, người phương Đông cũng vậy. Không những các nhà triết học, khoa hoa học tìm hiểu, những người hoằng dương Tổ sư thiền, phần nhiều cũng dạy người ta tìm hiểu. Cho nên, tìm một người ngộ đạo thật khó. Tuy thật khó, nhưng đời nào cũng có người ngộ đạo.
Giáo Môn của Trung Quốc, Đại thừa có 4 tông:
Thiên thai, Hiền Thủ, Tam Luận, Duy Thức.
Tông Thiên Thai có Trí Giả đại sư ngộ đạo, nhưng chính Trí Giả đại sư nói: “Tôi chỉ ngộ được ngũ phẩm, nếu tôi không dẫn chúng tu hành thì có thể ngộ cao hơn”. Sau Trí Giả đại sư là không thấy có ai ngộ. Pháp sư tông Thiên Thai giảng kinh thuyết pháp bây giờ vẫn còn. nhưng dù giảng theo giáo lý Thiên Thai, lại quy về Tịnh Độ. Như Pháp sư Đế Nhàn giảng giáo lý Thiên Thai, nhưng thực hành Tịnh Độ.
Bây giờ ở Việt Nam cũng có Thiên Thai Giáo Quán Tông. Quán Tông Tự của Ngài Đế Nhàn ở Tỉnh Triết Giang Trung Quốc. Bên này cũng nói là Thiên Thai Giáo Quán Tông, nhưng đối với giáo lý Thiên Thai thì không biết.
Tông Duy Thức là do Pháp sư Huyền Trang từ Ấn Độ truyền qua, dịch kinh thì nhiều, nhưng không có nghe ai chứng quả .
Tổ của Tam Luận Tông là Ngài Long Thọ, sau này không nghe ai chứng quả nữa.
Trong lịch sử Thiền Tông Trung Hoa có 7.000 Tổ kiến trình đều có ghi rõ họ tên, sự truyền thừa và nhân quyền được ngộ. Như có người thấy con khỉ leo cây mà ngộ, có người thấy hoa đào nở mà ngộ, có người đi bị vấp té mà ngộ, có người bị bạt tai mà ngộ, có người nghe hát mà ngộ …
Ví như Hòa Thượng Thủy Lão là một cao Tăng, đến yết kiến Mã Tổ. Mã Tổ bảo đảnh lễ, Thủy Lão vừa quỳ xuống thì bị Mã Tổ đá nhào xuống đất liền ngộ.
Đệ tử của Thiền sư Đạo Lâm tên là Hội Thông, muốn từ giả đi nơi khác, Đạo Lâm hỏi: ông muốn đi chỗ nào?
Hội Thông nói: Con xuất gia là muốn giải thoát, Thầy không dạy Phật pháp thì làm sao giải thoát?
Thầy nói: Nếu Phật pháp thì ở đây tôi cũng có chút đỉnh vậy.
Hỏi: Thế nào là Phật pháp của Hòa Thượng?
Đạo Lâm nhổ lông áo dài thổi trước mặt Hội Thông, Hội Thông liền ngộ.
Công án như vậy ở trong Thiền Tông rất nhiều.
Những người thông thạo giáo lý mà ngộ cũng có, như Nam Tuyền … người không biết giáo lý ngộ cũng có .
Tiểu thừa cho là người nữ không thể ngộ, nên các nước Tiểu thừa không cho người nữ xuất gia. Còn trong Thiền tông có nhiều người nữ ngộ đạo. Trong Đường Lối Thực Hành Tham Thiền đề ra ba đứa bé gái (8 tuổi, 13 tuổi, 5 tuổi) ngộ đạo.
Đức Phật là muốn chúng ta ngộ, chứ không phải muốn chúng ta hiểu. Nếu đuổi theo cái kiểu đó thì không bao giờ ngộ được.
Cô Trịnh 13, lúc 12 tuổi, theo một vị Sư cô đi tham vấn Quy Sơn. Sư cô ấy đuổi theo lời nói, Trịnh 13 tuổi ngộ mà tự mình không biết.
Trưởng lão Bảo Phước hỏi: Có phải Trịnh 13 gặp Quy Sơn không?
Trịnh 13 đáp: Phải.
Bảo Phước hỏi: Quy Sơn tịch rồi sẽ đi về đâu?
Trịnh 13 không trả lời, đứng một bên thiền sàng.
Trưởng lão khác hỏi: Ngày bình thường miệng nói như suối chảy, sao hôm nay lại không nói?
Trịnh 13 nói: Nhúc nhích hai miếng da này làm được gì?
Trưởng lão nói: Vậy không dùng hai miếng da thì làm được cái gì?
Trịnh 13 nói: Bịt miệng con chó lại.
Trịnh 13 theo đến Quy Sơn lễ bái rồi đứng dậy, Quy Sơn hỏi: Sư cô này ở đâu?
Sư cô nói: Ở bờ sông Nam Đài.
Quy Sơn liền hét đuổi ra, rồi hỏi: người đứng sau lưng Sư cô ở đâu?
Trịnh 13 lại gần.
Quy Sơn hỏi lại lần nữa.
Trịnh 13 nói: Đã trình cho Hòa Thượng rồi!
Quy Sơn bảo Trịnh 13 và Sư cô đi xuống Pháp Đường. Sư cô nói: Bình thường Trịnh 13 nói chuyện như kiếm bén, tại sao Đại Sư hỏi lại không trả lời được?
Trịnh 13 nói: Khổ thay! Khổ thay! Uổng công lâu nay phải đi hành cước, nên cởi áo xuất gia cho tôi mặc đi!
Sau này đem chuyện kể cho Thiền sư La Sơn (Thiền Sư đã ngộ, có danh tiếng): Tôi tham kiến Quy Sơn và trả lời như vậy được không?
La Sơn nói: Chẳng những không lỗi!
Sư cô nói: Lỗi ở chỗ nào?
La Sơn nạt một tiếng.
Trịnh 13 nói: Như gấm thêu hoa.
Hỏi: Sư phụ nói trong sách lịch sử Thiền Tông Trung Hoa có 7.000 người đã ngộ, khi một người được ghi là ngộ, ấy là do chính người đó nói là tôi ngộ, hay do người khác xác nhận người đó ngộ, mới được ghi vào sử? Ví dụ nhớ lại Phật Thích Ca tự nói ta ngộ, chứ đâu có ai xác nhận Phật đã ngộ?
Những quyển sách của người Trung Hoa hay của người Nhật Bản nói: Các đệ tử tham thoại đầu hay tham công án rồi vào gặp Thầy trình sở đắc của mình. Đầu tiên, Thầy nói chưa ngộ gì hết. Lần thứ hai có thể gần, lần thứ ba cũng chưa, lần thứ tư nói là ngộ. Vậy chuyện trong sách do người Thầy nói đã ngộ, hay người đệ tử nói chính tôi ngộ rồi? Ai xác nhận?
Đáp: Không phải ai nói, trong Pháp Bảo Đàn, có người hỏi Lục Tổ: Ngài ngộ chưa?
Lục Tổ nói: Tôi chưa ngộ.
Trong Nam Tuyền Ngữ Lục có kể công án về ông quan hỏi Ngũ Tổ:
– Tại sao 500 Tăng chỉ có Lục Tổ được truyền y bát, còn những người kia không được truyền?
Ngũ Tổ nói: 499 người kia đều biết Phật pháp, chỉ có Huệ Năng là siêu việt, nên mới được truyền.
Ai xác nhận đâu! Ngày xưa, lời nói của chư Tổ không cho đệ tử ghi, nhưng do tánh con người ham biết mới ghi lên. mới thành Truyền Đăng Lục, lúc ấy vua niên hiệu là Cảnh Đức, nên gọi Cảnh Đức Truyền Đăng Lục. Trong đó ghi 1700 công án, những người ngộ này
có thầy ấn chứng, nhưng sự ấn chứng không nói ra, Như Quy Sơn và La Sơn ấn chứng Trịnh 13 đã ngộ, nhưng không nói đã ngộ.
Hỏi: Nếu người đã kiến tánh mà không có thầy ấn chứng thì người đó có thể tự biết không?
Đáp: Thì người đó tự biết, mà cái biết đó không phải và cái biết của bộ não. Như Trịnh 13 đã ngộ thì tự biết, còn Sư cô chẳng biết gì. Vì sự hiểu biết của người thế gian là cần có cái gì để chứng minh, nhất là dùng logic để chứng minh. Logic chỉ chứng minh được những việc
tương đối; còn kiến tánh là phủ nhận tương đối, dùng logic không thể chứng minh được, và người thường cũng không thể lấy cái gì để chứng minh, chỉ có người ngộ với người ngộ tự biết. Nhưng nói với người chưa ngộ thì không được.
Hỏi: Người tham thiền chỉ một ngày chết phải đi đầu thai, còn người tu Tịnh Độ sau khi chết có vị nào đó đến hướng dẫn thần thức đi đầu thai đến chỗ tốt. Như vậy là thế nào?
Đáp: Diệu Cao Thiền Sư tham thiền rất dũng mãnh, nhưng ngồi tham thiền lại buồn ngủ. Ngài lên ngồi trên tảng đá, phía dưới là vực thẳm, lúc ngồi tham thiền cũng buồn ngủ rồi té xuống vực thẳm, nhưng lại có người đỡ. Ngài hỏi: Ai cứu tôi vậy?
Đáp: Hộ pháp Vi Dà.
Thấy có người cứu bèn nổi ý kiêu căng, mừng thầm và nghĩ: Khắp thiên hạ có ai bằng như tôi!
Hộ pháp Vi Đà nói: ông nổi niệm kiêu căng, nên 20 năm tôi không hộ pháp cho ông nữa.
Diệu Cao nghĩ lần này hễ té xuống mà không ai cứu thì phải chết, nhưng chẳng thà chết cũng ngồi nữa”. Ngài đã tự sám hối, rồi ngồi tham thiền. Lúc ngồi tham thiền lại buồn ngủ té xuống vực thẳm, rớt chưa tới đất đã có người đỡ lên.
Ngài hỏi: Ai cứu tôi vậy?
Đáp: Hộ Pháp Vi Dà.
Ngài nói: Vừa rồi ông nói 20 năm không hộ tôi, mà tại sao bây giờ lại hộ?
Hộ Pháp Vi Đà nói: ông khởi lên một niệm sám hối thì đã hơn 20 năm.
Một niệm sám hối đã hơn 20 năm, vì thời gian tánh không.
Hỏi: Kính xin Sư Phụ khai thị 2 đoạn văn của Ngài Trung Phong dạy đồ chúng:
Trong suốt ngày đêm chỉ muốn mềm niệm chẳng quên, lúc đi thì đi niệm, lúc ngồi thì ngồi niệm, lúc cử động, nói nín, nằm xuống, đứng dậy, đều niệm, lúc làm việc, tiếp vật cho đến khốn khổ, hoạn nạn, hiểm nguy cũng đều niệm. Thân như cây khô, như tảng đá, như thây chết, như tượng đất, chỉ tâm tâm ở tại đạo; ứng đáp với người như si, như say; nghe tiếng, thấy sắc như điếc, như đui. Vì thế dụ như mèo rình bắt chuột, tâm và mắt chăm chú nhìn vào một chỗ, lơ đãng một chút ắt chuột chạy mất. Như gà ấp trứng, hơi ấm cần phải liên tục, gián đoạn một chút là không thể thành gà con được. Vì thế niệm này là một điều khó.
– Tham thiền chẳng linh nghiệm, thường chỉ là tâm trộm cắp chưa chết. Vì thế năm tháng trôi suông, chứ không có bệnh nào khác. Nếu tâm trộm cắp nay chết ở ngày hôm nay thì ngày hôm nay liền tương ưng, chết ở ngày mai thì ngày mai bèn tương ưng.
Cái gì là tâm trộm cắp?
Hễ lìà câu thoại đầu sở tham ra, riêng thấy có tự kỷ là tâm trộm cắp. Ở ngoài cái tự kỷ bị thấy ra, riêng thấy có nhân, có ngã là tâm trộm cắp. Lúc tham được thuần thục biết thuần thục, ấy là tâm trộm cắp. Lúc tham thiền chẳng thuần thục biết chẳng thuần thục, ấy là tâm trộm cắp. Lúc chẳng thấy có hôn trầm, tán loạn, chỉ có câu thoại đầu sở tham cùng nghi tình giao kết chẳng gián đoạn, ấy là tâm trộm cắp. Hễ ớ chỗ khán thoại đầu chợt sanh một niệm, bất luận là phàm, là Thánh, là chân, là ngụy, nói chung đều là tâm trộm cắp.
Bỗng có người linh lợi hướng vào chỗ tôi nói đều chẳng dính dáng, riêng giúp cho một con đường là đạo, là lý, là kiến, là văn, đây gọi là tâm trộm cắp trong tâm trộm cắp. Phật chẳng thể cứu chữa, chỉ cần hết những tâm trộm cắp, chỉ thế ấy y bổn phận nắm chắc câu thoại đầu sở tham như tượng gỗ, tượng đất, như người chết có hơi thở, ngoài chẳng thấy có đại chúng, trong chẳng thấy có tự kỷ, lạnh băng băng, tuyệt kiến văn, như vậy giữ đi, lâu ngày sẽ được tâm không thi đậu về.
Đáp: Nói tóm lại hai đoạn trên: Trình của con người ham nghiên cứu lý và cầu hiểu biết, nhất là người phương Tây. Nhưng bây giờ người phương Đông cũng vậy. Tổ Sư thiền thì phải lìa lý, lìa hiểu biết, phải ngược lại. Khoa học phải nghiên cứu lý để tìm hiểu cho biết. Trong Phật pháp, phàm có biết một chút gì đều gọi là sở tri ngu, hiểu biết rất vi tế cũng gọi là cực vi tế sở tri ngu, là tâm trộm cắp.
Nếu có lý cao siêu về lời Phật cũng là tâm trộm cắp. Pháp sư giảng kinh có lý rất hay, cũng lọt vào tâm trộm cắp … Muốn lìa lý lìa hiểu biết rất khó, vì cuộc sống hằng ngày người ta cần hiểu biết, nếu không hiểu biết thành khờ ngốc sao?
Nếu thấy cái gì cũng như mù, nghe cái gì cũng như điếc thì không bị ngoại cảnh lôi kéo. Hễ muốn đến chỗ vắng lặng để tu hay nhập thất, việc ấy rất là có hại, vì không thấy cảnh thì không khai tâm động niệm, nhưng nhập thất một thời gian rồi ra thì thấy tâm còn động thêm nhiều. Theo Thiền Tông khi ngộ rồi mới nhập thất để bảo nhiệm.
Hỏi: Kính xin Sư Phụ khai thị thêm đoạn văn của Ngài Trung Phong dạy đồ chúng dưới đây:
– Người học đạo có linh nghiệm là tâm trộm cắp chết hết. Tâm trộm cắp còn một mảy lông chết chẳng hết thì muôn kiếp không có lý tự thành. Nói thẳng ra, chết được một phần tâm trộm cắp thì học được một phần đạo. Chết được tâm trộm cắp năm phần thì học được năm phần đạo. Tâm trộm cắp hoàn toàn không thì toàn thể là đạo. Bởi vì sự chướng đạo của tâm trộm cắp giống như bụi bặm che mất ánh sáng của gương.
Người thời nay chỉ biết có đạo để thành, mà chẳng biết có tâm trộm cắp nên hết. Hoặc tâm trộm cắp chưa hết mà muốn đạo được thành, khác gì ngồi ở trong nước mà muốn đừng ước, xưa nay trong thiên hạ không có lẽ đó.
Thuở xưa Hòa Thượng Vĩnh Minh thống thiết nói:
“Tình sanh trí cách, tưởng biến thể thù”, nghĩa là: Tình nổi dậy thì trí huệ bị che lấp, tư tưởng biến đổi thì thân thể cũng theo đó mà biến dạng, khiến công án sẵn sàng, của báu gia truyền chẳng được thọ dụng. Tình sanh tướng biến là biệt danh của tâm trộm cắp mà tôi vừa nói.
Muốn bất cứ lúc nào tình chẳng sanh, bất cứ chỗ nào tưởng chẳng biến, thì cần phải thật đem việc lớn sanh tử để ở trong lòng, lấp bít ý căn, tình vừa muốn sanh thì bị nó ngăn, tưởng toan muốn biến liền bị nó đoạt. Ông nếu chẳng vì việc lớn sanh tử, ở trong lòng khán câu thoại đầu quyết cầu ngộ chứng, mà chỉ là một bề đè nén cho tình tưởng kia chẳng sanh chẳng biến, khác chi người đã chết mà muốn thở ra hít vô để làm gì?
Người xưa có nói: “Tham thiền không bí quyết, chỉ cần sanh tử thiết”. Lời này thật thông suốt cả ba đời, là cội gốc lớn của sự học đạo. Ví như chẳng lấy sanh tử vô thường làm trách nhiệm nặng nề của mình, nằng nặc muốn hiểu thiền hiểu đạo mà tham cứu việc này, thì giống như bảo người tịch cốc (những người suốt đời không biết đói, không cần ăn), đi cấy trồng mà chẳng biết đó chẳng phải là việc của họ (vì họ không cần ăn thì cấy cày để làm gì?).
Đáp: Nếu mình lấy ý thức để tìm hiểu giáo lý cao siêu của Phật Thích Ca, cũng là tâm trộm cắp, còn gọi là sở tri ngu.
Hỏi: Kính xin Sư Phụ khai thị đoạn văn kế tiếp của Ngài Trung Phong dạy đồ chúng:
Bậc tiền bối ba mươi năm, năm mươi năm chí càng bền, niệm càng thiết, hạnh càng siêng và chẳng chịu có chút gián đoạn, chẳng phải do thầy bạn cảnh sách, tòng lâm khuyến khích, ngôn thuyết chỉ bày, phương tiện khuyến tấn mà được như vậy. Mà bởi cội gốc của các Ngài chỉ là một cái nguyện thống niệm sanh tử chưa giải quyết xong. Giả sử đời này chẳng xong thì đời nào mới xong? Niệm tấn đạo nếu tự chẳng chân thật thiết tha, dẫu Phật Tổ có thần dị đổi phàm thành Thánh, khiến A La Hán khởi tham sân si, tuy cố làm đó, quyết chẳng thể lâu được.
Có người vì muốn hiểu đạo mà học đạo, mà không chiếu phá được cảnh phù huyễn nổi trước mắt, lại bị cảnh duyên đó làm cho vọng niệm khởi lên chẳng dừng. Vọng niệm đã khởi thì dầu sức học đạo như núi gò, sẽ thấy có ngày bị vọng niệm làm hại. Kinh Lăng Nghiêm nói:
“Cuồng tâm chưa ngưng nghĩ, ngưng nghĩ tức Bồ Đề”. Cái gì là cuồng tâm? Hễ ngoài việc thống niệm sanh tử, đề câu thoại đầu sở tham ra, dù có làm trăm ngàn điều siêu việt thế gian, đều chẳng khỏi chê là cuồng tâm.
Tổ Thiếu Lâm nói: “Ngoài dứt các duyên, trong không nghĩ tưởng, tôm như tường vách, có thể vào đạo”. Nhưng vào đạo gác lại chẳng hỏi. Tâm này có từng như tường vách hay chưa? Nếu chưa mà muốn mong nhập đạo, đó là điều chẳng tự xét.
Tham thiền cả một đời chẳng ngộ, học đạo cả một đời chẳng rõ, chỉ cần chẳng dễ dàng buông bỏ cái chánh niệm này, để tham để học thì chắc chắn có ngày đến chỗ cùng tột. Nếu bỏ chánh niệm này, vọng đem thức tình xuyên tạc lấy lời người khác làm kiến giải của mình, dẫu hiểu hết cổ kim, tọa đoạn Phật Tổ, cũng đều là dối trình cuồng kiến, tự mang tội lỗi, chẳng phải là điều của người chân thật học đạo làm.
Đáp: Nói nhiều cũng giống như ý trên, người ta chỉ biết có chánh niệm, rồi bỏ tà niệm giữ chánh niệm! Ngài Trung Phong nói: “Tà niệm là nhiễm, chánh niệm là tịnh, mà nổi lên niệm nhiễm là tâm trộm cắp, nổi lên niệm tịnh cũng là tâm trộm cắp”. Người ta bỏ tà niệm còn khó, huống là bỏ chánh niệm! Cho nên, khỏi cầnbỏ, vì không có cái gì để bỏ, mà bỏ cái gì? Chỉ cần có lòng tin tự tâm, như Ngài Long thọ nói: “Tâm như hư không vô sở hữu”, chỉ cần tin vô sở hữu mà mình đang dùng. Tất cả đều ở trong vô sở hữu này, như mặt trời, mặt trăng, núi sông, đất đai … đều ở trong vô sở hữu này. (Sư phụ đãdẫn dụ tâm như hư không vô sở hữu, lược qua).
Cho nên, Phật nói những hiểu biết trước mắt của mình đều là sai lầm, không đúng với thật tế. Vì vậy mới gọi là tâm trộm cắp, làm chướng ngại cái thật tế. Thật tế là bản thể của Phật tánh, dẹp hết tất cả lý cao siêu của tâm trộm cắp thì bản thể Phật tánh tự động hiện lên. Nay tuy Bản thể Phật tánh chưa hiện lên, nhưng mình cũng đang dùng.
Hỏi: Ngày xưa các ngài khó hiểu biết, vì không có phương tiện nghe nhìn; còn ngày nay phương tiện nghe nhìn có nhiều, nên người tham học khỏi đi hành cước. Đáng lẽ người nay phải ngộ nhiều hơn người xưa, tại sao ngược lại?
Đáp: Nghe hiểu nhiều chừng nào thì sự chứng quả ít chừng nấy. Nghiên cứu lý để tìm hiểu là chuyện thế gian, muốn tu pháp xuất thế gian thì phải lìa lý lìa hiểu. Cho nên, hiểu nhiều thì phải xa sự chứng ngộ.
Hỏi: Ngày xưa, Ngài Hám Sơn trong khi tu có Ngài Cao Phong giúp đỡ, ngày nay, chúng con cần phải học hỏi tìm hiểu, vậy có thể chứng ngộ không?
Đáp: Ngày nay người ta tôn trọng khoa học và triết học, nhưng khoa học và triết học hiện đại là phải cứu lý tìm hiểu. Phật pháp phải ngược lại lìa lý lìa tìm hiểu, Tiểu thừa chấm dứt lục căn, không cho lục căn tìm hiểu. Ngũ Đình Tâm Quán của Tiểu thừa là ngưng hoạt động của tâm, Trung thừa và Đại thừa cuối cùng cũng đình chỉ hoạt động của tâm. Đình chỉ tâm là mục đích đến chỗ kiến tánh, đến lúc kiến tánh thì không cần đình chỉ nữa. Vì bản thể tự lánh luôn luôn khắp không gian, khắp thời gian, không bao giờ ngưng.
Hỏi: Cách hành trì của Tiểu thừa, Trung thừa và Đại thừa như thế nào?
Đáp: Đại thừa gồm Tối thượng thừa, Tiểu thừa gồm Trung thừa. Có 5 thứ khác biệt:
1. Điểm xuất Phát chẳng đồng:
a. Tiểu thừa: Bắt nguồn từ nhân sinh quan đắm khổ, nghiệp cảm duyên khởi, nhàm chán phiền não mà cầu nơi thanh tịnh.
b. Đại thừa: Từ nhân sinh quan từ bi, chân như tỏa ra, lấy hóa tha tự tại làm chí nghiệp.
2. Hành vi chẳng đồng:
a. Tiểu thừa: Tự lợi tự độ, chỉ được giải thoát theo tiêu cực, tức là lấy đoạn dứt phiền não làm Niết bàn và mục tiêu cuối cùng.
b. Đại thừa: Tự độ độ tha, lấy hoạt động tích cực làm hành vi, đắc đại tự tại làm tư tưởng chung cuộc.
3. Cảnh giới chung đồng:
a.Tiều thừa: Ngừng nơi hiện tượng giới.
b. Đại thừa: Vào nơi thực tại giới.
4. Phương pháp chẳng đồng:
a. Tiểu thừa: Dứt lục căn, đoạn nhất niệm vô minh, vào nơi đoạn diệt, chủ nghĩa cấm dục.
b. Đại thừa: Phá vô thỉ vô minh, kiến Phật tánh, chủ nghĩa tự tại, chủ nghĩa thực tại (tức Chân Như), sắc tâm và pháp đều tồn tại vĩnh viễn.
5. Lý luận chẳng đồng:
a. Tiểu thừa: Tầm khảo sát ngưng nơi hiện tượng và cho rằng chủ khách thực tế tồn tại, là nhị nguyên luận. Ngoài ra dùng chủ nghĩa cảm giác phủ định những thực tại ngoài cảm giác.
b. Đại thừa: Siêu việt phạm vi nhận thức của bộ não,sự cùng tột của thực tại với hiện tượng giới chẳng khác, chủ khách như một, chân vọng hợp nhất, là nhất nguyên luận, là thực tại luận siêu việt Hình Nhi Thượng.
Triết học phương Tây chỉ có hai giai đoạn: Ngã chấp và pháp chấp, đều nằm trong phạm vi nhất niệm vô minh, tức tư duy và lý niệm. Nhưng tư duy và lý niệm đều là hóa thân của nhất niệm vô minh, cũng là tác dụng của bộ não.
Mục đích triết học phương Tây là nghiên cứu lý luận để tìm hiểu, nên chẳng chịu rời bỏ nhất niệm vô minh. Bởi vì nếu tiến vào phạm vi của vô thỉ vô minh thì cảm giác trống rỗng chẳng có lý luận để truy cứu, cũng chẳng có gì để tìm hiểu, hoàn toàn trái ngược với mục đích của họ.
Cho nên, xưa nay các nhà triết học phương Tây chưa ai từng đi vào cảnh giới vô thỉ vô minh, hễ chưa vào cảnh giới vô thỉ vô minh thì chẳng thể đột phá cái chấp không, cũng chẳng vào được tuyệt đối. Phá được cái chấp không là kiến tánh, đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn.
Mục đích của nhà triết học phương Tây là truy lý cầu tri, còn mục đích tu trì Phật pháp là liễu thoát sanh tử; triết học phương Tây chú trọng lý luận, Phật pháp thì chú trọng thực tiễn, tức là từ nhất niệm vô minh tiến thẳng vào tuyệt đối vậy.
Hỏi: Lý do gì sự ngộ của Thiền tông không cần kinh điển?
Đáp: Kinh chỉ là trợ duyên, công phu đến mức thì gặp cái gì cũng ngộ, cũng như có người gặp con khỉ leo cây mà ngộ, có người thấy hoa đào nở thì ngộ, có người đi bị vấp té lại ngộ, có người bị bạt tai ngộ, có người nghe hát ngộ, có người đi ngang chỗ bán thịt, nghe nói “bán cho tôi một cân thịt nạc”, người bán chặt mạnh con dao xuống bàn và nói lớn “chỗ nào không phải là thịt nạc”, người ấy liền ngộ. Đâu phải chỉ xem kinh mới ngộ? Cũng có người xem kinh mà ngộ.
Như có người tham kiến Mã Tổ, Mã Tổ nói: Hãy đảnh lễ đi. Người đó mới lạy xuống thì Mã Tổ đá một cái ngã xuống đất liền ngộ. Nghe kinh ngộ chỉ một phần ít, cái ngộ là do nghi tình đến mức bùng nổ, lúc đó muốn không ngộ cũng không được.
Hỏi: Các giới luật có ảnh hưởng đến tu Tổ Sư thiền không?
Đáp: Tổ Sư thiền cũng phải giữ giới. A Nan hỏi Phật:
– Sau khi Phật nhập Niết Bàn thì chúng con lấy ai làm thầy?
Phật nói: Lấy giới luật làm thầy.
Hỏi: Có phải Thiền tông không tin vào kinh điển không?
Đáp: Sao nói là Thiền tông không tin kinh điển! Thiền tông tự nhiên ăn khớp với kinh điển, chứ không phải không tin kinh điển, chỉ là không chấp kinh điển.
Hỏi : Xin Thầy nói rõ: Không tin và không chấp?
Đáp: Nếu giải thích triệt để thì Phật nói: “Phàm có lời nói đều chẳng có nghĩa thật”. Bây giờ nói không chấp là đã chấp rồi, tại có chấp nên mới nói không chấp, vì còn nằm trong tương đối. Nếu chấp vào một bên, là nằm trong một của 5 thứ ác kiến:
Chấp nhất định có Phật cũng lọt vào biên kiến, chấp nhất định không có Phật cũng lọt vào biên kiến. Cho nên nói: “Lấy vô Trụ làm gốc, tức là không trụ bên nào, có trụ là không được.
Hỏi: Sư phụ đã giải thích cho mọi người thì kiến thức của thầy đã cản trở hay giúp thầy trên đường tu tập?
Đáp: Cản trở trên đường tu tập. Tôi là người đầu tiên hoằng dương Tổ Sư thiền ở Việt Nam, cũng là người đầu tiên đả thiền thất ở Việt Nam. Mọi người đã quen biết Giáo môn và Tịnh Độ, còn đối với Tổ Sư thiền thì người ta lại khó tin, nên tôi phải biết, như thế họ mới tin tôi. Rồi từ từ người tham Tổ Sư thiền ngày càng đông. Nếu hỏi tôi không trả lời được thì có ai chịu học Tổ Sư thiền đâu!
Hỏi: Ngài Nam Tuyền chém mèo có coi là lậu tận giới không?
Đáp: Người ta cứ đùng tập khí bộ óc lâu đời để suy nghĩ . Như Phật nói trong kinh Kim Cang: “Chúng sanh tức phi chúng sanh, thị danh chúng sanh”, chúng sanh là giả danh, như Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Vô lão tử diệc, vô lão tử tận”, nếu không có sanh tử, làm sao có việc chém chết?
Một Thiền sư đưa cây phất trần lên hỏi: Cây phất trần với việc Nam Tuyền chém mèo có khác hay không khác? Rồi tự mình làm bài kệ, câu thứ tư là: “Phất trần với chém mèo đâu có khác!”. Vì mình đuổi theo cảnh hay lời nói thì bị cảnh lôi kéo.
-Có người nói: Lục Tổ ăn rau bên cạnh thịt thì tôi cũng ăn được, vậy đâu cần phải ăn chay?
Người ngộ đạo ở trong thế lưu bố tưởng không sanh ra trước tưởng, thì không có nhân quả, vì tâm không có tạo. Người ngộ đã nhảy ra ngoài chiêm bao, không dính líu chiêm bao. Tổ nói: “Tình sanh trí cách”, có người chưa kiến tánh nói “tôi chẳng nổi tình cảm gì hết, chẳng dính dáng đến tình cảm”, nhưng rồi cũng bị người kiến tánh chê.
“Chẳng dính đáng đến tình cảm” vẫn còn ở trong nghĩa ba câu của Bá Trượng, tức còn có tri giải. Các vị tin pháp môn Tổ Sư thiền và tin tự tâm được 100%, tức Phật tánh của mình và Phật tánh của Phật Thích Ca chẳng khác biệt chút nào cả. Như vậy thực hành rất dễ, rất đơn giản, chỉ là giữ được nghi tình thì tất cả sẽ tự động giải quyết xong.
Nhưng bây giờ các nhà sách bán nhiều sách thiền, cũng nói Tổ Sư thiền và giải thích nghĩa lý Tổ Sư thiền; giải thích công án thì lọt vào ý thức phân biệt, nên không bao giờ ngộ.
Mục đích Tổ Sư thiền là muốn chấm dứt ý thức phân biệt, nên sát na lìa ý thức liền kiến tánh. Còn bây giờ không lìa ý thức, mà lại dùng ý thức để giải thích phân biệt để tìm hiểu đáp án. Cho nên, giải công án là sai lầm và nghịch với Tổ Sư thiền, vì vậy chư Tổ nói là phỉ báng Tổ, cũng là phỉ báng pháp.
Hỏi: Xã hội ngày nay khoa học tiến bộ, con người không được rảnh rang như người xưa, nên không để ý sự tu, nhất là tu Tổ Sư thiền rất khó. vậy có phải không?
Đáp: Do hiểu theo người thế gian, như nhà triết học, nhà khoa học … thì sự tu của họ lại khó. Vì cuộc sống hằng ngày đều phải dùng bộ óc để nghiên cứu triết học hay nghiên cứu khoa học, bất cứ nghiên cứu cái gì đều nhờ bộ óc. Nếu bây giờ chấm dứt hoạt động của bộ óc thì người ta phản đối, họ cho “đồ khùng”. Phải rồi, vì theo tư tưởng thế gian là vậy.
Cho nên, thiền giải đáp công án ở Nhật Bản dễ truyền khắp thế giới. Hiện nay người Trung Quốc cũng đi học thiền giải công án, rồi về dạy cho người Hoa. Chùa Cao Mân là Tổ đình của Thiền Tông, nhưng cũng lọt vào hến giải. Ngày xưa Ngài Lai Quả không cho người ta giảng công án, khi tôi ở đó thấy đêm nào cũng có vị Trưởng lão giảng công án.
Hỏi: Những pháp thiền của các tôn giáo khác là để ngưng hoạt động của bộ óc hay để im lặng, vậy có khác với cách tu của Tổ Sư thiền không?
Đáp: Các thiền của tôn giáo khác là mục đích bỏ nhiễm duyên lấy cái tịnh duyên cho là ngộ. Tịnh duyên đối với nhiễm duyên thì tết, còn đối với bản thể Phật tánh là chướng ngại. Bởi vì đối với nhiễm nên mới nói tịnh, còn nằm trong tương đối, tức những thứ ấy có thể dùng bộ óc để giải thích được.
Tổ Sư thiền không thể giải thích, tại bộ óc không thể tiếp xúc được phải ngộ mới biết, cái biết của Phật tánh gọi là Bát Nhã. Hễ ngộ là Phật tánh hiện lên, chứ không phải có năng ngộ sở ngộ. Nếu có năng ngộ sở ngộ thì không được, vì còn có tứ tướng (ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng).
Hỏi: Sư phụ nói những thức nào khi thân chết nó vẫn còn tồn tại?
Đáp: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức đều tồn tại vĩnh viễn, không phải các căn. Tức Tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh xúc, tánh nếm, tánh biết tồn tại vĩnh viễn không mất, cùng khắp không gian và thời gian, nên không có đi và ở. Nếu có đi đâu thì chẳng phải cùng khắp.
Hỏi: Thần thức đi đầu thai là sao?
Đáp: Thần thức đi đầu thai là chưa nhảy ra ngoài chiêm bao, từ chiêm bao này qua chiêm bao khác chưa thức tỉnh phải kiến tánh rồi mới thức tỉnh. Còn chưa kiến tánh thức thứ bảy cứ ôm A-lại-da thức cho là ta, đã có ta rồi làm sao cùng khắp được? Nhưng bản thể cùng khắp nên năng lượng của Phật tánh cùng khắp. Bây giờ máy vi tính có thể chứng tỏ cùng khắp, nhưng nhà khoa học không chịu tin. Tất cả chủng tử thiện, ác, vô ký đều ở trong A-lại-da thức mang theo.
Hỏi: Thiền sư Đạo Nguyên nói với thầy của ngài là Nghĩa Tịnh: “Con nay buông xả được thân tâm”, hai thầy trò đối đáp nhau, cuối cùng Nghĩa Tịnh ấn chứng cho Đạo Nguyên được kiến tánh. Vậy như thế nào?
Đáp: Ngài Đại Huệ khiến cho những người đó được kiến tánh triệt để, nhưng trước khi chưa gặp Đại Huệ, họ tự cho mình đã kiến tánh, rồi ra hoằng pháp, cũng được nhiều người ấn chứng. Ban đầu họ không phục Đại Huệ, sau này mới phục, nên được kiến tánh.
Quá trình ngộ của Đại Huệ đến mấy lần, cách ngộ rất khó khăn. Thiền sư Viên Ngộ ấn chứng cho Đại Huệvà nói:
“Ông ngộ đến mức này cũng hiếm có, nhưng chưa rốt ráo”.
Ngài phải qua mấy lần rồi mới ngộ triệt để. Khi chưa qua những giai đoạn đó, cũng có nhiều Thiền sư ấn chứng Ngài đã kiến tánh, nhưng Ngài vẫn còn có cái nghi.
Ngài nghĩ: “Nếu gặp Thiền sư Viên Ngộ ấn chứng mình kiến tánh giống như các Thiền sư kia, thì sẽ về viết bài: “Vô Thiền Luận”.
Viên Ngộ nói với Đại Huệ rằng: ông nói cũng được, làm bài tụng cũng dược, nhưng ông còn thiếu một tiếng ồ!
Lúc ấy, Đại Huệ mới theo Viên Ngộ, như ban đầu nghe: “Gió mát từ phương nam” cho là ngộ, rồi gặp Viên Ngộ ấn chứng Ngài được ngộ, nhưng chưa đến chỗ rốt ráo.
Ngài trải qua mấy lần ngộ cực khổ, Viên Ngộ nói: “Khi vào phòng của tôi thì được, nhưng ra thì không được; lúc ông ngồi giải đáp cho người ta được, nhưng đứng dậy thì không được”.
Tại sao? Vì chưa ngộ triệt để. Lúc ngộ triệt để rồi, Ngài nói:
– Nếu có thật ngộ cũng không được lấy sở ngộ của mình để dạy người. Ngộ rồi phải rõ đại pháp, mới có sức đại cơ đại đụng để khiến cho người khác ngộ, còn lấy sở ngộ của mình để dạy người, là thiền ngâm nước chết.
Hỏi: Tại sao học Phật pháp có thể thành tà đạo?
Đáp: Trên thực tế, người hiểu giáo lý nhiều dễ trở thành tà đạo, vì chấp thật sự hiểu biết của mình, dùng sự hiểu biết của bộ não kiến lập tri kiến, mà chẳng biết sự hiểu biết đó sai lầm.
Kinh Lăng Nghiêm nói “Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn”. Họ chẳng những lọt vào tà đạo, lại còn hoằng dương tà đạo, cho lời nói của Phật là Phật pháp của mình để dạy người, tạo tội địa ngục mà chẳng tự biết, cứ tự cho là thuyết pháp theo lời Phật dạy. Nên Trí Giả đại sư nói là: “Học Phật pháp thành tà đạo, sau này tiêu diệt Phật pháp là bọn người này”. Tức là chỉ có con cháu của nhà phật mới tiêu diệt Phật giáo, chứ chẳng phải tôn giáo khác. Đối với hạng người đó, chẳng cách nào vãn hồi, đành phải chịu thôi.
Hỏi : Những người như thế, sau một thời gian tham thiền, có thể quầy đầu lại không ?
Đáp: Có người tham thiền càng nhiều ngã chấp càng lớn, vì không phá ngã chấp, chỉ tin theo sự hiểu biết của bộ não, cho hiểu biết nhiều là hay, chẳng biết đó là mây đen che khuất ánh sáng mặt trời, nên Phật dạy chúng ta phải dẹp bỏ những hiểu biết đó.
Hỏi : Sư phụ nói là chuyển thức thành trí thì năng lượng lìa vật chất, nhưng bản lai vô nhất vật, thì lấy cái gì lìa cái gì ?
Đáp: Hãy trở về xem lại kinh Lăng Già, vì thầy chưa hiểu, vẫn còn chấp theo lời nói của Phật cho là Phật pháp của mình, mà chẳng biết tất cả lời nói của chư Phật chỉ là phương tiện, chẳng phải thật, không được chấp theo. Nên Phật nói xong liền phủ nhận, vì hễ nói được là tương đối, là nhị, còn Phật pháp là bất nhị.
Hỏi : Thông thường, người đệ tử nhìn vào sự tu hành của người thầy có chứng đắc hay không, ví dụ: Con là người tu hành, sau này con chết rồi, đem đi thiêu, nếu có xá lợi thì mọi người nói là con đắc đạo; nếu không thì mọi người cho là con không có tu. Quan niệm của Thầy ra sao?
Đáp: Tôi chẳng có cái đó, chữ Phật nghĩa là giác ngộ, nếu tu đến giác ngộ thì biết không có sanh tử, tức liễu thoát sánh tử. Tại có sanh tử mới có xá lợi của xương, sanh tử đã không thì những cái kia cũng là thừa.
Tâm Kinh nói “Vô lão tử diệc vô lão tử tận”, bây giờ có xá lợi đâu có ích lợi gì! Những thứ đó do chấp sanh tử mới có, người không chấp sanh tử thì có hay không chẳng vấn đề, có cũng được, không có cũng được, tất cả hiện tượng mình thấy đều là vọng tưởng, do vọng tâm tạo. Trong kinh Lăng Nghiêm giải thích rất kỹ.
Hỏi: Khi xưa Đức Phật sau khi trà tỳ, được xá lợi vô vàn, để phân chia khắp nơi. Tại sao thời nay chẳng thể noi theo gương đó?
Đáp: Tất cả đều là vọng tưởng, ấy là lời của Phật nói. Nay chúng ta thấy sum la vạn tượng, nhà cửa cây cối đều do tập khí vọng tưởng của mình, với cộng nghiệp của tất cả chúng sanh, nên cũng thấy như thế, nhưng trong cộng nghiệp có biệt nghiệp của cá nhân.
Sự thật thì chẳng phải như thế: Nếu ở trong thế lưu bố tưởng sanh ra trước tưởng thì gọi là pháp thế gian, hễ không sanh ra trước tưởng, thì gọi là pháp xuất thế gian, gọi là Phật pháp. Đó là trong kinh Đại Niết Bàn.
Còn ở trong Yếu chỉ Trung Quán Luận thì tất cả đều phá, Như Lai cũng phá, Niết bàn cũng phá … phàm do bộ não nhận biết được, do văn tự lời nói diễn tả được, có sự tương đối đều phải phá. Vì hễ dùng lời nói, phải tương đối mới nói ra được, văn tự là thay cho lời nói, cũng vậy. Cho nên, kinh Lăng Già nói “Pháp phải lìa văn tự”, vì văn tự chẳng thể nói. Nhưng người ta không hiểu, tưởng là có thể nói, có thể diễn tả, có thể cho là đúng hay sai, ấy là lọt vào biên kiến mà tự chẳng hay biết.
Hỏi: Vậy thế nào là hành đúng theo chánh pháp?
Đáp: Không chấp thật, lại phá chấp thật là chánh; không chấp ngã, lại phá chấp ngã là chánh.
Hỏi: Tại sao tất cả các kinh đều bắt đầu từ hai chữ “Như thị”?
Đáp: Hai chữ này nghĩa là “đúng như vậy”. Vì thời Phật thuyết pháp không ai ghi chép, sau khi Phật nhập diệt đệ tử của Phật tập họp lại, mời Thị giả của Đức Phật là A Nan ghi nhớ và đọc lại, nên cuốn kinh nào cũng khởi đầu bằng “Tôi nghe như vầy”, nếu năm trăm vị A la hán đều cho là đúng thì ghi nhận.
Hỏi: Có phải hễ có khởi niệm là lọt vào tương đối?
Đáp: Không phải. Nếu chỉ có thế lửa bố tưởng, không sanh ra trước tưởng thì không có tương đối. Cũng như bậc thánh nói “có” cũng được, nói “không” cũng được, vì không sanh ra trước tưởng. Nay chúng ta dù hiểu được nhưng làm không được, vì còn ngã chấp chưa dứt sạch, ví như chưa ra khỏi luân hồi, dùng tri kiến muốn tìm Viên giác thì Viên giác ấy cũng thành luân hồi.
Hỏi: Một số các thầy giảng về câu “Sắc bất dị không, không bất dị sắc”, rằng sắc chẳng tự có, mà từ nhân duyên, từ cái không này nhờ duyên mà ra, nên nói “Sắc bất dị không”, đến chừng duyên hết rồi, như tứ đại tan rã, thì gọi là “Không bất dị sắc”. Giải thích như vậy có đúng không?
Đáp: Do là vì chấp nhân duyên cho là thật. Trong quyển Lăng Nghiêm Tông Thông có đoạn phá chấp nhân duyên bởi bài kệ của ngài Long Thọ :
Các pháp chẳng tự sanh,
Cũng chẳng từ tha sanh.
Chẳng cộng chẳng vô nhân,
Cho nên nói vô sanh.
Vì nó chẳng phải là tự sanh, cũng chẳng phải tha sanh, hễ nói tha cũng là tự. Cũng chẳng phải tự và tha cộng sanh, chẳng phải không có nhân sanh, ví như cây lý sánh ra cây lý, cây đào sanh cây đào, chứ chẳng phải vô nhân mà sanh được. Đủ thứ nghĩa lý đều chẳng thành lập, nên nói vô sanh.
Tại sao nói là các pháp chẳng tự sanh? Vì phải nhờ nhân duyên mới sanh khởi. Còn nói chẳng từ tha sanh, vì mỗi duyên chẳng tự tánh. Nói “chẳng cộng sanh” vì tự với tha còn không có thì lấy gì để cộng? Chẳng vô nhân sanh: Như bây giờ muốn giác ngộ thì phải tu mới
giác ngộ được, chứ đâu phải mình không tu mà được giác ngộ!
Từ ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), lục nhập (nhãn, như tỷ, thiệt, thân, ý), thập nhị xứ (lục căn đối với lục trần), thập bát giới (lục căn đối với lục trần sanh ra lục thức), cho đến thất đại (địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức) đều muốn giảng rõ ý này.
Nếu ngộ biết vốn chẳng sanh khởi, thì giống như con mắt sáng to, vốn là không có hoa đốm trong hư không. Nếu dụi con mắt, thình lình bị bệnh thì thấy hư không có hoa đốm, như nay thấy đủ thứ, đều là hoa đốm. Ấy là do con mắt mỏi mệt mới thấy. Tức là bỏ cái thật mà lại thấy cái vọng nên thấy hoa đốm. Hoa đốm chẳng thật, chỉ là ảo tượng, đâu phải từ chỗ nào đến! Vì con mắt bệnh mới thấy.
Trên thực tế, nếu con mắt chẳng bệnh thì thấy hư không sáng tỏ chẳng hoa đốm, nên biết chẳng phải tự sanh, chẳng phải từ nhân duyên sanh.
Sắc ấm như thế thì thọ, tưởng, hành, thức đều như thế; ngũ uẩn đã như thế thì lục nhập, thập nhị xứ, thập bát giới đều như thế.
Hỏi: Kinh nghiệm mình hiểu và mình từ hiểu có khác nhau không?
Đáp: Hễ tìm hiểu là càng tìm càng xa. Có công án của Tổ Pháp Nhãn:
Thiền tông có 5 phái: Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn, Quy Ngưỡng. Tổ đầu tiên của tông Pháp Nhãn là Thiền sư Văn Ích, sau khi được thầy ấn chứng là ngộ đạo, vì là người cao nhất trong các huynh đệ, nên ngài dẫn đầu đi tham học.
Ngày xưa người kiến tánh rồi vẫn còn đi tham học. Khi đi ngang chỗ Thiền hội của Thiền sư Quế Sâm, gặp bão tuyết chẳng thể đi tiếp, nên ghé lại nơi này để tránh tuyết. Lúc trò chuyện với Thiền sư Quế Sâm, nói đến “trời đất với ta cùng một nguồn gốc” của Triệu Luận, Quế Sâm hỏi:
– Trời đất với Thượng tọa đồng hay khác?
Văn Ích đáp: Đồng.
Quế Sâm không nói mà chỉ đưa 2 ngón tay (ý nói là nhị. Vì chọn tâm bất nhị, đã ngộ rồi tại sao còn nhị pháp?)
Các người đi cùng thấy vậy thì trả lời: Khác.
Quế Sâm vẫn không nói mà chỉ đưa 2 ngón tay.
Theo sự hiểu biết của mọi người đều cho “đồng” là một, khác mới là nhị. Mà chẳng biết đồng cũng là nhị, vì có hai vật trở lên mới có thể so sánh là đồng hay dị.
Quế Sâm biết những người này chưa kiến tánh, nhưng cũng công phu cũng sắp chín mùi. Khi tuyết đã dừng, Văn Ích và những người đi cùng từ giã đi tiếp, Thiền sư đưa ra ngoài cửa gặp một tảng đá.
Quế Sâm hỏi: Bình thường Thượng tọa cho là vạn pháp duy tâm. Vậy tảng đá này ở trong tâm hay ở ngoài tâm?
Văn Ích đáp: Ở trong tâm.
Quế Sâm cười: sao Thượng tọa đi hành cước lại để tảng đá trong tâm vậy?
Văn Ích đỏ bừng mặt, không đi tiếp nữa, trở vào xin ở lại. Mỗi ngày trình kiến giải đều bị Quế Sâm lắc đầu. Trải qua một tháng, Văn Ích nói:
Nay con tất cả đều sạch, chẳng còn lý gì để trình (lúc đó công phu đã chín muồi).
Quế Sâm nói: Nếu nói Phật pháp thì tất cả đều sẵn sàng.
Văn Ích liền ngộ triệt để, và nối pháp của Quế Sâm, trở thành tông sư của phái Pháp Nhãn tông.
Thời nay, người tu học hay tìm hiểu, nhiều người xem Phật pháp như một loại văn hóa để tìm hiểu, lại giải thích từng danh từ, từng chữ, nên càng tìm càng xa.
Hỏi : Nếu không giải thích thì làm sao hiểu?
Đáp: Là giải thích cái lý, chứ chẳng phải giải thích theo chữ. Tại pháp lìa văn tự, phàm có lời nói đều chẳng phải nghĩa thật, nên phải phù hợp với ý của Phật. Nếu y văn giải nghĩa thì là tam thế Phật oan.
Hỏi: Tác dụng đọc 50 thứ ma ngũ ấm để là gì?
Đáp: Để nhắc nhở, để ý mình có lọt vào những cảnh giới đó không? Nếu thấy mình có chứng đắc thì rất nguy hiểm, chớ tưởng là tốt. Phật dặn A Nan luôn nhắc nhờ người đời sau: “Tu hành không được để lọt vào 50 thứ ma ngũ ấm”.
Hỏi: Sư phụ nói người kiến tánh rồi dễ dứt tập khí hơn, vậy còn người giải ngộ thì sao? Có dứt được tập khí không?
Đáp: Không, nó còn có thể tăng thêm tập khí nữa, vì ôm chấp cái ngộ.
Hỏi: Thế nào là giải ngộ? Thế nào là chứng ngộ?
Đáp: Giải ngộ là cái nhận biết của bộ não, còn chứng ngộ là dẹp hết cái biết của bộ não, lúc đó chơn tâm hiện lên, chẳng phải sự hiểu hay không hiểu.
Hỏi : Trong tháng vừa rồi xảy ra ba trận động đất, vậy có phải do nhân quả của loài người không?
Đáp: Phải. Đó cũng là trong kinh nói về cộng nghiệp và biệt nghiệp, trong cộng nghiệp cũng riêng có biệt nghiệp, ví như trong trận động đất đó có người bị chết, có người thì được sống sót, ấy là biệt nghiệp vậy.
Hỏi : Làm sao hết được nhân quả, chấm dứt cái biết?
Đáp: Ở trong mở mắt chiêm bao thức tỉnh thì hết. Trên xã hội ngày nay là người nào hiểu biết nhiều chừng nào cao chừng nấy, là bậc tri thức. Còn Phật pháp thì ngược lại biết nhiều chừng nào, sở tri chướng ngại nhiều chừng nấy, cho nên làm sao chấm dứt được cái tìm hiểu biết? Không chấm đứt thì chẳng thể ngộ, chẳng thể thức tỉnh từ mở mắt chiêm bao. Như thế cứ từ chiêm bao này qua chiêm bao khác; nay là chiêm bao con người, sau này có thể là chiêm bao con heo, con chó, con mèo …
Nay tham thiền là muốn dẹp những cái che khuất cho mau thức tỉnh, Che khuất đó là: Tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ, nên phải dùng cái không biết để chấm dứt.

DUY LỰC NGỮ LỤC QUYỂN HẠ – PHẦN 27

DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN HẠ
(Bài giảng trong các năm (1992 – 1999)
HT. THÍCH DUY LỰC
—-o0o—

Bài giảng trong các năm 1992 – 1999
27.
15/05/99 – 21/05/99 tại Chùa Hưng Phước, Quận 3
Hỏi: Tâm viên ý mã ẩn dụ như thế nào?
Đáp: Như con khỉ ở trên cây nhảy qua nhảy lại, con ngựa hay chạy, không bao giờ dừng nghỉ. Tâm của mình cũng vậy, suốt ngày nổi từ niệm này sang niệm khác, cứ suy nghĩ liên tục không bao giờ ngưng, nên gọi tâm viên ý mã. Trong Phật học gọi nhất niệm vô minh, ban đêm hoạt động gọi là nhắm mắt chiêm bao, ban ngày hoạt động là mở mắt chiêm bao.
Hỏi: Vừa hỏi vừa nhìn song song với nhau, vậy nhìn vào câu hỏi hay nhìn chỗ không biết mới đúng?
Đáp: Câu thoại đầu chỉ là kích thích niệm không biết, chẳng phải nhìn vào câu thoại đầu, nhưng hỏi với nhìn phải cùng một lượt, chẳng có trước sau, hỏi và nhìn cùng một tâm đồng thời hai thứ, hai thứ không gián đoạn đều một lượt. Ví như muốn ba thứ một lượt cũng được: như cái đồng hồ này, kim giờ, kim phút kim giây, ba kim cùng chạy không gián đoạn.
Hỏi: Phật cao nhất xích. ma cao nhất trượng, nghĩa này như thế nào?
Đáp: Thuốc là dùng để trị bệnh, Phật pháp là trị bệnh chấp ngã, nhưng nhiều người không biết, ví như học ở Phật Học Viện, sơ cấp rồi lên trung cấp, đến cao đẳng, theo chánh pháp phải phá ngã chấp mới đúng, thực tế thì chẳng phải vậy:
Lúc học sơ cấp cái ngã còn nhỏ, học hết trung cấp thì cái ngã lớn hơn, đến cao đẳng thì ngã càng lớn, cho là mình biết nhiều, tức học đến cao chừng nào ngã to chừng nấy, cho là thông suốt giáo lý, thuyết pháp độ sanh, tăng cường ngã chấp, cứ cho ta là thuyết pháp, các ngươi là người nghe pháp, lại cho ta là cao nhất, ta biết còn các ngươi không biết, đó chính là cái ngã, ngã là ma. Vì không ngộ được bản giác trong sạch, hễ hiểu được một thì ngã chấp tăng lên mười. Cho nên nói Phật cao một xích, ma cao một trượng là vậy.
Hỏi: Tánh hung ác, tánh không chân thật, tánh tham lam … vậy tánh nào là chơn tánh của các tánh trên? Và có khác với tánh thấy tánh nghe không?
Đáp: Tất cả đều là vọng. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Chơn với vọng là hai thứ vọng”, phàm có tương đối đều là vọng, hễ có thể dùng lục căn nhận biết là vọng.
Hỏi: Nói có tâm độc ác, tâm tham, tâm thiện v.v… các tâm ấy đều là vọng tâm. Còn chơn tâm trước sau đều không khởi, có phải là chơn không?
Đáp: Chơn với vọng là hai thứ vọng, còn thực tế thì chẳng đối đãi, chẳng có chơn với giả, chẳng có chơn với vọng, gọi là tự tánh bất nhị hay thật tướng vô tướng. Chẳng phải chấp vào một bên mà nói vô tướng, tức hữu tướng cũng vô, vô tướng cũng vô. Nói thật tướng là để phá vô tướng và hữu tướng, nếu chấp thật cái hữu tướng là biên kiến, chấp thật vô tướng cũng vậy.
Hỏi: Bát thức chuyển thành tứ trí, chỉ dùng tên gọi chẳng chân thật, nghĩa là chỉ chuyển cái tên mà cái thể chẳng thể chuyển. Vậy bản lai diện mục của vô thỉ vô minh và bản lai diện mục của Phật tánh giống nhau không?
Đáp: Chuyển bát thức thành tứ trí, trong Kinh Pháp Bảo Đàn có tám câu kệ:
Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh,
Bình đẳng tánh trí tâm chẳng bệnh.
Diệu quán sát trí chẳng tác ý,
Thành sở tác trí đồng viên cảnh.
Ngũ, bát, lục, thất quả nhân chuyển
Chỉ dùng tên gọi chẳng thật tánh.
Nếu ngay nơi chuyển chẳng dính mắc,
Ở chỗ náo động cũng đại định.
Lược giải:
1 / Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh: Thức thứ tám chuyển thành trí như gương tròn chiếu soi, phổ chiếu vạn pháp, là trí vốn thanh tịnh của bản tánh.
2/ Bình đẳng tánh trí tâm chẳng bệnh: Thức thứ bảy chấp thức thứ tám là ta. Thức thứ tám là bản thể tất cả pháp thành ô nhiễm, nay chuyển thành Bình đẳng tánh trí, ảnh hưởng thức thử sáu chẳng khởi phân biệt tưởng thì tâm chẳng bệnh.
3/ Diệu quan sát trí chẳng tác ý (Sự thấy của Diệu quan sát trí chẳng cần tác ý): Do sự chấp ngã của thức thứ bảy khiến thức thứ sáu sanh khởi vọng tưởng phân biệt, khi chuyển thành Diệu quan sát trí rồi, dù thấy mà chẳng có tác ý phân biệt, nên gọi chẳng tác ý.
4/ Thành sở tác từ đồng viên cảnh: Tiền ngũ thức duyên theo sự lãnh đạo của thức thứ sáu mà khởi vọng tưởng phân biệt, khi chuyển thành Thành sở tác trí rồi, tức đồng như Đại viên cảnh trí, dù dùng nhưng chẳng tác ý phân biệt.
5/ Ngũ, bát, lục, thất quả nhân chuyển: Nghĩa là lục và thất trong nhân chuyển, thức thứ sáu là nhân tiệm tu của Giáo môn, thức thứ bảy là nhân đốn ngộ của Thiền môn. Ngũ và bát là trên quả chuyển, vì vọng chấp của thức thứ bảy chuyển thì ngũ và bát cũng chuyển theo.
6/ Chỉ dùng tên gọi chẳng thật tánh: Tám thức kể trên chuyển thành tứ trí chỉ là tên gọi, chẳng có tánh thật’ nghĩa là chỉ chuyển cái tên, chẳng thể chuyển cái thể vậy.
7/ Nếu ngay nơi chuyển chẳng dính mắc: Nghĩa là ngay nơi chuyển mà chẳng chấp trước, chẳng chấp thật.
8/ Ở chỗ náo động cũng đại định: Nghĩa là ở chỗ náo động cách mấy cũng đại định, chẳng có nhập định và xuất định, tức là vĩnh viễn ở trong định.
Đây là chuyển tám thức thành tứ trí.
Hỏi: Lục diệu pháp môn có phải tu bước đầu không?
Đáp: Lục diệu pháp môn của thừa nào? Tiểu thừa cũng có Lục diệu. Nếu là Tổ sư Thiền thì khỏi cần diệu, chỉ cần hỏi và nhìn, tức hỏi câu thoại đầu cảm thấy không biết và không đi tìm hiểu là đủ rồi. Khi nào kiến tánh tự nhiên sẽ diệu, nếu chưa kiến tánh có muốn diệu cũng không được.
Hỏi: Hành giả tham Tổ sư thiền có vượt qua 50 thứ ma ngũ ấm không?
Đáp: Tại có chấp ngũ ấm là ta, nên mới có ma ngũ ấm. Điều kiện thứ nhất trong mười điều tham Tổ sư thiền là phá ngã chấp, tức là không có ta, vì không có ta nên vô sở đắc, vô sở cầu và vô sở sợ. Ta còn không có thì ngũ ấm cũng không có, ngũ ấm còn không có thì làm sao có ngũ ấm ma?
Hỏi: Con người có trí khôn hơn các loài động vật, tu hành sẽ thành Phật. Loài động vật nhỏ bé như con kiến, con muỗi, cua, ốc, côn trùng … với ý thức nhỏ bé có thành Phật không?
Đáp: Thành Phật chẳng phải nhờ trí khôn. Chứng Đạo Ca nói: “Ngoại đạo thông minh chẳng trí tuệ”. Súc sanh muốn thành Phật phải đầu thai thành người. Tức là trong lục đạo ngoài con người ra, các đạo khác chẳng thể thành Phật. Chỉ có người tu theo chánh pháp của Phật mới thành Phật.
Ở ngoài đời, người có trí khôn nhìn hành giả tham thiền thấy giống như khờ ngốc, nhưng nếu hành giả tham thiền đến được giai đoạn khờ ngốc đó mới hy vọng thành Phật, vì giữ công phu tốt mới được như thế.
Hỏi: Hư Vân Lão Hòa thượng thuộc dòng phái nào?
Đáp: Hư Vân Lão Hòa thượng thuộc đòng phái Lâm Tế. Ở Trung Quốc có năm phái thiền là: Lâm Tế, Tào Động, Pháp Nhãn, Vân Môn, Qui Ngưỡng. Hai phái Lâm Tế, Tào Động còn tiếp tục đến ngày nay, còn ba phái kia tuyệt truyền. Ngài từng muốn ba phái kia được tiếp tục truyền, nhưng rồi cũng không thành.
Hỏi: Lời của Phật không có nghĩa thật, tại sao Hòa thượng dùng lời của Phật để dẫn chứng? Vậy có phải dùng thuốc giả để trị bệnh giả không?
Đáp: Lời của Phật gọi là bất định pháp, chỉ là công cụ để phá chấp, lời của tôi cũng vậy. Tôi cũng bắt chước lời của Phật Thích Ca dùng công cụ để phá chấp thôi, nếu chấp vào công cụ đó thì phật chẳng thể giáo hóa.
(Sư phụ đã giảng về Phẩm Phá Hành trong Trung Quán Luận, xem trang 513).
Hỏi: Tam pháp ấn là gì?
Đáp: Là ba pháp ấn của Tiểu thừa, còn Đại thừa chỉ có một pháp ấn là Thật tướng vô tướng, tức chẳng có tướng có, cũng chẳng tướng không. Thật tướng vô tướng là công cụ để phá tương đối.
Hỏi: Làm thế nào công phu được liên tục?
Đáp: Khi tham thiền cảm thấy lười biếng thì ngưng tham, nghĩ lại việc sanh tử của mình: Như nay mình còn sống, không biết giờ nào chết, có khi tối ngủ chết luôn cũng không chừng, chết rồi thì tham thiền đâu được! Nếu sanh tử chưa giải quyết thì phải tiếp tục tu đến khi nào giác ngộ, giải thoát được sanh tử mới thôi.
Cho nên, người phát tâm xuất gia, cũng như phát tâm tham thiền phải có chánh nhân muốn giải thoát sanh tử, có chánh nhân mới có chánh quả. Những người không có chánh nhân, ví như vợ chồng gây gổ rồi đi tu, hay sự nghiệp thất bại rồi bỏ đi tu thì chẳng phải chánh nhân.
Ví như thấy Thiền thất đông người, mình cũng bắt chước tham thiền, chứ chẳng phải vì giải quyết vấn đề sanh tử. Tùy hứng mà tu nên ngài Hư Vân nói: “Năm đầu sơ tham, năm thứ hai lão tham, năm thứ ba thì không tham”. Vì khi hết hứng thú thì không tham.
Hỏi: Trong lúc tu tập thiền định, ngài có gặp những chướng duyên nào?
Đáp: Tu là sửa chướng duyên, chướng duyên là nghiệp giúp cho mình tu, còn thuận duyên có thể hại cho sự tu của mình. Tại sao? Vì thuận duyên khiến mình ham thích thỏa mãn dục vọng, không còn nhớ đến việc tu nữa, còn chướng duyên thì kích thích mài giũa cho mình tu thêm. Cho nên, người tu không sợ chướng duyên mà sợ thuận duyên.
Hỏi: Thiền là gì?
Đáp: Thiền không phải là gì, nếu là gì thì chẳng phải thiền. Thiền là công cụ để dẹp loạn tâm, tức là đình chỉ vọng tâm.
Hỏi: Thế nào là Duy tuệ thị nghiệp?
Đáp: Trí tuệ này chẳng phải trí tuệ của bộ não, mà là Trí tuệ của Phật tánh, gọi là Bát nhã. Trí tuệ của bộ não phải qua suy nghĩ tác ý mới dùng ra được, còn trí tuệ của Bát nhã không qua bộ não suy nghĩ mà là tự động, luôn khắp không gian thời gian. Nay chúng ta học Phật là để phát huy trí của Phật tánh, lấy cái đó để làm sự nghiệp.

DUY LỰC NGỮ LỤC QUYỂN HẠ – PHẦN 26

DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN HẠ
(Bài giảng trong các năm (1992 – 1999)
HT. THÍCH DUY LỰC
—-o0o—

Bài giảng trong các năm 1992 – 1999
26.
19/03/99 – 25/03/99 tại Chùa Hưng Phước, Quận 3
Sư phụ giới thiệu cuốn “Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21”:
Vì muốn hoằng pháp ở phương Tây, phải dùng những danh từ khoa học, người phương Tây dễ chấp nhận. Thực tế, Phật pháp là thực dụng hằng ngày, còn khoa học chỉ căn cứ có thể tích, giải thích theo sức lực của vật chất. Sức lực vật chất, bất kể vật gì, phàm có thể tích đều có từ trường, sức từ trường gọi là từ lực, có sức hút như nam châm.
Người phát hiện đầu tiên về sức hút là ông Newton, khi ông thấy quả táo ở trên cây rơi xuống, ông nghĩ tại sao quả táo rơi xuống mà không bay lên? Từ đó mới phát hiện ra sức hấp dẫn của quả đất và sức hấp dẫn vạn hữu: Tất cả vật chất, vật thể đều có sức hút, đều có từ trường, gọi là từ lực. Nội dung cuốn Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21 mà tôi biên soạn, tổng quát về nguồn gốc của Phật pháp, là bắt đầu từ định lý Từ Lực của Newton.
Mọi sinh hoạt văn minh của nhân loại vạn tượng sum la, bao gồm giáo dục, chính trị, văn hóa, kinh tế, y học v.v… đều nhắm chung mục đích mong cầu hạnh .phúc cho con người.
Cho đến nay, khoa học kỹ thuật đã đóng vai trò dẫn đầu trong việc thực hiện mưu cầu này nhưng chưa thành công. Vì căn bản mọi ngành, mọi môn khoa học, chỉ lợi dụng được những năng lượng phát ra từ vật chất nên vĩnh viễn bị thời gian, không gian hạn chế.
Nay chỉ còn một năm nữa là chúng ta bước vào thế kỷ 21, nếu muốn từ hữu hạn tiến đến vô hạn thì chúng ta nên chú tâm đến một nguồn năng lượng khác: Nguồn năng lượng phát ra từ phi vật chất.
Trong cuốn sách này, các vấn đề lực học Newton, lực học Einstein, và lực học của Thích Ca Mâu Ni sẽ lần lượt được đề cập để chúng ta cùng nhau tham khảo. Rất mong được nhận ý kiến đóng góp của quí vị đồng bước tiến vào Thế kỷ 21.
Kết luận của Vũ Trụ Quan:
Muốn kiến lập lý luận từ tương đối đến tuyệt đối, trước tiên phải bắt đầu từ lực học Newton đến lực học Einstein. Nếu giả thuyết tốc độ vận động của vật chất từ 0 đến 100, thì Newton là từ 0 đến 50, thuộc tánh thuận hành bất biến; còn Einstein thì từ 0 đến 50, rồi lại tiến thêm từ 50 đến 100, thuộc tánh khả biến và chuyển đổi lẫn nhau; còn lực học của Thích Ca Mâu Ni chẳng những từ 0 đến 100, lại từ 100 đến 200, 300 v.v… cho đến vô cùng tận.
Tóm lại, quan điểm của nhà khoa học chỉ hạn cuộc trong khả năng quan sát những vật tương đối trong vũ trụ, vì vạn sự vạn vật đều chẳng thể mỗi mỗi tự độc lập phải nhờ nhân duyên tương đối mà thành: Như gà sanh trứng, trứng sanh gà; như âm dương tương đối, hút đẩy tương đối, đồng tánh thì chống nhau, khác tánh thì hút nhau … khi hấp lực lớn đến mức độ “N” thì tốc độ ánh sáng có thể bị hấp lực nuốt mất.
Vạn vật trong vũ trụ hoại nhau mà giúp nhau, ăn nuốt lẫn nhau, đã thống nhất, lại mâu thuẫn, biến hóa chẳng định, lại chẳng thể tăng giảm. Như nước có thể diệt lửa, nhưng nếu đem nước phân tích thành hai thứ khí thể H,O, thì lại trở thành lửa, H có thể tự cháy, O có thể giúp cho sự cháy.
Dù hoại nhau, thành nhau, mà cùng tồn tại bất diệt. Chúng ta ở trong hoàn cảnh vạn tượng sum la lăng xăng, phức tạp, nhiễu loạn chẳng ngừng này, mỗi mỗi vì dục vọng của bản thân mà cạnh tranh lẫn nhau, từ đao kiếm súng ống, chiến tranh kinh tế, từ chiến tranh lạnh đến chiến tranh nóng, và từ chiến tranh nóng qua chiến tranh lạnh; từ chiến tranh cá nhân với cá nhân, cho đến chiến tranh quần thể với quần thể … Thiên tai nhân họa, tranh nhau mà đến. Xưa kia còn tưởng thiên tai là việc không thể đối phó được, nhưng hiện nay mới phát hiện thiên tai cũng là do nhân loại tạo thành.
Chúng ta ở trong hoàn cảnh thiên tai nhân họa tranh nhau ùa đến chẳng ngừng này, đâu thể hưởng thụ cuộc sống hạnh phúc? Tại sao con người một mặt tạo ra tai nạn, một mặt lại kêu gọi đóng góp để cứu nạn? Thật là mâu thuẫn tức cười. Cho nên Đức Phật nói “Tất cả do tâm tạo là vậy.
Nếu chúng ta chịu sống theo sự chỉ dạy của Đức Phật về phương cách sống, thì hạnh phúc ở nơi trước mắt, chứ chẳng cần tìm cầu. Nói một cách khác tức là “Vô vi mà vô sở bất vi”. Nói “vô vi” chỉ là giữ cái tâm này chẳng sanh khởi hai chữ “Cho là” mà thôi.
Việc này dù xem như rất đơn giản, nhưng thực tại thì khó làm được, đó là vì tập khí của chúng ta lúc đối cảnh ắt phải khởi tâm động niệm, nhất định phải dùng “cho là” để lạc vào tương đối, rồi từ đó thị phi tốt xấu ùn lên, và phiền não cũng theo đó mà đến. Lực học của Thích Ca Mâu Ni chỉ là như thế, như thế.
Đã vì đói khát mà ăn uống thì cứ ăn uống, chẳng nghĩ cái khác, đã vì che thân chống lạnh mà mặc áo thì cứ mặc áo, chẳng nghĩ cái khác, mỗi mỗi chức nghiệp đều giữ đúng vị trí vai trò của nó, chẳng nghĩ cái khác. Vậy thì, cha giữ đúng vai trò của cha, mẹ giữ đúng vai trò của mẹ, con cái giữ đúng vai trò của con cái, chồng giữ đúng vai trò của chồng, vợ giữ đúng vai trò của vợ v.v… tất cả mỗi mỗi đều giữ đúng vai trò của mình, làm tròn bổn phận, an cư lạc nghiệp, thì tự nhiên mọi người đều được an lạc hạnh phúc, thiên hạ thái bình.
Ghi chú: Vai trò:
Nghĩa là tùy theo truyền thống xưa nay của một dân tộc và nhà nước, phong tục, tập quán, pháp luật khác nhau thì vai trò cũng theo đó khác nhau, như truyền thống Việt Nam, Trung Quốc, truyền thống Mỹ v.v… mỗi mỗi đều khác nhau vậy.
Phật pháp kỳ thật chỉ là hiển bày tâm của mọi người, người ta hiểu lầm, tưởng tâm là bộ não, nếu qua bộ não thì gọi là vọng tâm, chứ chẳng phải chơn tâm. Bộ não là vật chất, hệ thống thần kinh, lục căn đều là vật chất, còn chơn tâm chẳng phải vật chất, là lìa vật chất. Bây giờ người ta chỉ biết đến tâm là một danh từ, ai cũng nói được, nhưng tâm là cái gì thì chẳng ai biết. Kỳ thật, chơn tâm chẳng có thể tích, mặc dù nói tâm như hư không, nhưng người ta cũng không thể tưởng tượng, cho nên, ngài Long Thọ là Tổ thứ mười bốn của Thiền tông giải thích thật kỹ, dùng “Tâm như hư không vô sở hữu” để thí dụ chơn tâm của tất cả chúng sanh.
(Sư phụ đã giảng về hư không vô sở hữu, lược qua).
Nay các nhà khoa học đều tin theo bộ não, đã thành thói quen, muốn dùng sự hiểu biết của bộ não để tìm sự bắt đầu của vũ trụ và sinh mạng, nếu theo lực học của Thích Ca Mâu Ni thì gọi đó là si mê, nhưng bây giờ gọi nhà khoa học là si mê có ai chịu đâu?
Kỹ thuật khoa học dẫn đầu để tạo hạnh phúc cho con người, nhưng tạo hoài mà cái khỗ vẫn nhiều thêm, cũng như y học càng tiến bộ thì vi trùng càng phát triển mạnh, còn khoa học tiến bộ bao nhiêu thì nguyên tử giết người nhanh hơn bấy nhiêu.
Theo lực học của Newton từ 0 đến 50 thuộc tánh thuận hành bất biến, thời đó chưa có xe hơi và máy bay. Đến thời Einstein không những từ 0 đến 50, lại từ 50 đến 100, thuộc tánh khả biến mà chuyển đổi lẫn nhau. Làm sao chuyển đổi? Nhà khoa học biết thể tích nhỏ chừng nào thì từ lực mạnh chừng nấy, nay nhà khoa học phát hiện vật thể nhỏ nhất là quang tử, tốc độ ánh sáng là cao nhất, mỗi giây đi ba trăm ngàn cây số. Lại, vật chất có thể biến thành năng lượng, năng lượng cũng có thể biến thành vật chất, chuyển đổi lẫn nhau. Mặc dù chuyển đổi lẫn nhau, nhưng phải có vật chất mới chuyển đổi thành năng lượng, chứ chẳng thể lìa vật chất.
Còn lực học của Thích Ca Mâu Ni khỏi cần vật chất, tức lìa vật chất, là năng lượng tâm của mọi người. Cho nên, nhà thiên văn đùng tốc độ ánh sáng để tính khoảng cách của không gian, ví như ánh sáng đi một năm đến thì khoảng cách đó gọi là một quang niên, ánh sáng đi mười năm mới đến thì khoảng cách đó gọi là mười quang niên, mà ánh sáng đi mười năm đến thì tâm mình chỉ một niệm liền đến, ánh sáng đi một triệu năm đến thì tâm mình cũng một niệm là đến. Tại sao? Vì nó phi vật chất, chẳng bị số lượng, không gian, thời gian hạn chế, mà nó luôn khắp không gian, khắp thời gian, nhưng người ta không tin, kể cả nhà khoa học cũng không tin.
Về nguồn gốc của Phật pháp:
Thân thể của trí Bát nhã, có người gọi là Phật tánh, tâm Chơn như, Diệu tâm … Bản thể của nó là tri, mà dụng của nó cũng là tri. Tất cả mọi người trên thế gian, tất cả chúng sanh, cho đến vạn vật trong vũ trụ đều là vật sở tri của nó, nhưng tất cả mọi người, tất cả chư Phật đều chẳng thể biết được nó, vì nó chẳng thuộc về sở tri. Cho nên, nó vĩnh viễn không thể bị ai phát hiện được luôn cả Phật, vì hễ bị phát hiện tức thành sở tri rồi.
Điều này đối với thế gian thật là kỳ diệu, nhưng theo lý toán học mà suy luận cũng chẳng phải kỳ diệu:
Một cuốn sách toán học xuất bản ở Hồng Kông nói:
Có loại con sâu dép cỏ (Paranaccium) là động vật rất nhỏ thân thể của nó cứ mỗi ngày đêm thì nứt thành hai, từ đời thứ nhất đến đời thứ 90 thề tích của nó bằng quả địa cầu. Nếu đảo ngược lại, đem quả địa cầu xẻ 2, xẻ 4, xẻ 8, cứ tiếp tục xẻ qua 130 lần thì trở lại bằng con sâu dép. Theo lý này suy luận, nếu đem con sâu dép cỏ xẻ thêm 130 lần nữa thì đơn vị thịt của con sâu, do con số biểu thị kia có còn thấy được chăng? Nếu đem xẻ thêm 10 lần 130, cho đến trăm ngàn lần 130, con số vẫn có thể biểu thị được đơn vị thịt của con sâu đó, nhưng thực tế chúng ta còn cảm nhận được thịt của con sâu đó không? Căn cứ theo toán học, nếu cho một con sâu làm đơn vị 1; trước 1 đó thêm vào một số 0 thì thành 0.1; thêm một số 0 nữa thành 0,01; cứ theo đó mà suy tiếp, vẽ thêm số 0 cho đến dài bằng vòng quanh một quả đất, rồi hai quả đất, ba quả đất … vĩnh viễn vô cùng tận.
Giả sử khoa học kỹ thuật cải tiến, kính hiển vi có tốc độ còn nhanh hơn vẽ số 0 thì có thể phát hiện được đơn vị thịt của con sâu đó, những đơn vị ấy thật chưa phải là thực tế vì con số còn có thể phân chia mãi vô cùng cho đến vô cùng.
Việc này Phật Thích Ca gọi là bất khả đắc, cũng là vô thỉ vô sanh. Trong Kinh Lăng Già, Phật nhắc đi nhắc lại với chúng sanh: Cần phải xa lìa “tự tâm hiện lượng”, bởi vì cái năng hiện của tự tâm là TRI và KIẾN, sở hiện của nó là HỮU và VÔ, đều thuộc sản phẩm của bộ não. Nên Kinh Lăng Nghiêm nói “Tri kiến lập tri tức vô minh bổn”, tri kiến là năng lập, hữu vô là sở lập, khi bộ não biến thành tro thành đất rồi, cái bất khả đắc của bản trụ đâu có thể theo bộ não mà biến thành tro đất?
Theo lời Thế Tôn nói: Bất khả đắc gọi là bất sanh, bất khả biến gọi là bất diệt, pháp bất sanh bất diệt này tức là bản thể của thật tướng vậy.
(Sư phụ đã nói về sức dụng của tâm, lược qua).
Từ trường phát từ vật chất thì bị không gian thời gian hạn chế, còn Phật Thích Ca dạy chúng ta pháp tham thiền để dẹp những cái che khuất (tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết), sẽ hiện ra từ trường của chơn tâm với sức mạnh vô cùng, chẳng bị không gian thời gian hạn chế. Cho nên, tốc độ ánh sáng đi mười triệu năm mới đến thì tâm của mình chỉ một niệm đến.
Phải biết từ trường của mỗi người đều bằng nhau, chỉ là hễ bị che khuất nhiều thì hiện ra ít thôi.
Từ lực chơn tâm mình sẵn có, bằng như chư Phật, chẳng kém hơn một tí nào, do đó, Phật Thích Ca truyền dạy pháp thiền trực tiếp này, đáng lẽ không có tên gọi, từ Đức Phật truyền cho Sơ Tổ, Sơ Tổ truyền cho Nhị Tổ, Nhị Tổ truyền cho Tam Tổ … do Tổ sư từng đời từng đời truyền xuống, nên gọi là Tổ Sư Thiền.
Hỏi: Môn học khí công khi luyện đến một mức độ nào đó sẽ phát ra công năng đặc dị, và tham thiền cũng phát được một số công năng đặc dị. Vậy môn khí công và môn tham thiền có liên quan gì không?
Đáp: Khí công phát ra cũng là từ vật chất, đó là cơ thể. Nó có thể từ lục căn, lục căn cũng là vật chất, lục thức thì không phải vật chất, luyện theo ý niệm là từ vật chất. Nhà khoa học cũng biết, nếu đem một vật chà xát cho nóng lên sẽ sanh ra từ trường, cũng gọi là điện lực càng chà sức từ trường càng mạnh, nếu ngưng chà thì nó trở lại bình thường. Vậy luyện khí công là phát từ vật chất nên bị hạn chế. Tham thiền là phát từ phi vật chất, chẳng bị không gian thời gian hạn chế.
Trong quyển Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21 tôi có giải thích về mỗi căn, mỗi thức. Đại học ở Mỹ gồm các khoa Sinh lý học, Tâm lý học, Triết học, Khoa học tự nhiên, bốn khoa hợp lại giải thích không thông, vì họ cho rằng con người chỉ có một cái thức, đó là bộ não, chỉ biết có hệ thống thần kinh, họ không biết được thức với căn, không thể phân biệt. Hệ thống thần kinh là vật chất, còn kinh lạc cũng là vật chất mà chẳng thể dùng kính hiển vỉ thấy được.
Cổ nhân thời xưa ở Trung Quốc, do tỉnh tọa phát hiện được mười bốn kinh lạc nơi thân thế, gồm ba trăm mấy huyệt, có thể kích thích các huyệt để điều chỉnh thần kinh: Khi hệ thống thần kinh yếu đi hoặc mạnh quá (thái quá hay bất cập) không được quân bình nên sanh ra các bệnh. Ở Mỹ, người ta nghiên cứu tìm kiếm các kinh lạc, huyệt, dùng kính hiển vi mạnh cấp mấy cũng không thấy được, những trường hợp bệnh Tây y trị không hết, nhưng châm cứu lại hiệu quả, thành ra họ phải nhìn nhận. Nay ở Đại học Mỹ cũng có khoa châm cứu.
Thức chẳng có hệ thống, chẳng phải như hệ thống đường đi của kinh lạc. Tổ sư thiền do chư Tổ truyền xuống, tin rồi thực hành. Nếu tin pháp môn 100% thì chưa được, mới chỉ có một nửa. Tại sao? Vì chỉ tin pháp môn, chưa tin tự tâm. Tham thiền là muốn hiện sức của tâm, nếu không tin tự tâm thì sức đó làm sao hiện ra? không tin thì phải thắc mắc, phải hỏi, thắc mắc có năm thứ: Nghi lý, nghi sự, nghi pháp, nghi thầy, nghi mình.
Sự thắc mắc của các vị đều nằm trong năm thứ này, tôi sẽ giải tỏa, nghi lý thì giải tỏa lý, nghi sự giải tỏa sự, nghi mình nghiệp chướng nặng, nghi thầy nói không đúng … tôi đều giải tỏa. Mục đích giải đáp chỉ là giải tỏa năm thứ nghi, chứ chẳng phải cho hiểu thêm giáo lý cao siêu. Sự thật chẳng có giáo lý gì cả, chẳng thể kiến lập cái lý, do kiến lập lý rồi mới có đúng và không đúng, có tương đối mới sanh ra sự tranh cãi.
Hỏi: Lâm Tế nói với Đại Ngu “Chẳng dè Phật pháp của Hoàng Bá có chút xíu”. Sau một năm con học pháp này với Sư phụ, nay con xin sửa lại như thế này: “Nào dè Phật pháp của Hoàng Bá không có gì cả!” Xin Sư phụ khai thị chỗ này?
Đáp: Vì ông không hiểu, nên làm sao dạy cho ông được! ông là người mà chư Phật chẳng thể giáo hóa. Tôi đã nói không cho tìm hiểu, công án của chư Tổ là muốn khiến người ta ngộ, chứ không phải muốn người ta hiểu; còn ông muốn hiểu, là nghịch ý của chư Tổ, vì hiểu là phải có lý, lý thì chẳng thể kiến lập, đúng lý hay không đúng lý, hợp lý hay không hợp lý đều là tương đối.
Đã nói vô thỉ là không thể bắt đầu, vô sanh là không có sự sanh khởi. Hễ có sanh khởi thì phải có sự bắt đầu, tôi đã dùng toán số chứng tỏ không thể bắt đầu: Dầu con số chia mãi chẳng thể chia đến số cực nhỏ, không có cực nhỏ thì không có cực lớn. Hễ chia được số cực nhỏ tức có sự bắt đầu, có số cực lớn tức có cuối cùng, vì không thể tìm được con số bắt đầu, nên Phật nói “bất khả đắc”. Bất khả đắc gọi là bất sanh, không có cuối cùng là bất biến, gọi là bất diệt.
Bây giờ khoa học cũng chứng tỏ tất cả vật chất đều y nguyên tồn tại vĩnh viễn bất diệt, bất sanh bất diệt, làm sao có sự bắt đầu? Làm sao kiến lập cái lý? Nay sẽ trích đọc bài Trung Quán Luận cho ông nghe:
Có người hỏi: Phật pháp có thể chia nhiều tông, sao không thể chia nhiều phái? Nên biết Phật pháp là để hiển bày bản thể tự tánh bất nhị, của Diệu giác nên chẳng thể chia. Có thể chia là giáo pháp, chẳng phải Phật pháp, chư Phật chư Tổ vì muốn thích ứng căn cơ trình độ của mọi chúng sanh, vì khế hợp đương cơ nên chia nhiều tông, tức là trên phù hợp ý Phật (Phật pháp chẳng thể chia), dưới khế hợp đương cơ (Giáo pháp có thể chia) là vậy.
Giáo pháp thích hợp với người phương Đông được chia làm năm hệ: Thiền, Giáo, Luật, Tịnh, Mật. Thiền, Luật, Tịnh, Mật, mỗi hệ có một tông, Giáo môn chia thành bốn tông: Thiên thai, Hiền thủ, Tam luận và Duyên thức cộng chung thành tám tông Đại thừa.
Luận này vì muốn phá chấp nhị biên tương đối, nên phương tiện thiết lập Trung Quán. Nguồn gốc của nhị biên là Hữu và Vô. “Hữư” bao gồm hữu vi pháp, “Vô” bao gồm vô vi pháp. Nhị biên đã phá thì “Trung” chẳng có chỗ để an lập. Như thế, đâu có học thuyết cao siêu để cho nghiên cứu mà dựng lập học phái Trung Quán!
Lục Tổ nói thuyết pháp chẳng lìa tự tánh, tự tánh bất nhị, kinh Đại thừa liễu nghĩa do Phật thuyết đều là bất nhị. Chư Tổ căn cứ theo kinh liễu nghĩa lập luận sớ giải cũng là bất nhị. Bất nhị thì chẳng có tương đối, chẳng tương đối thì chẳng thể dùng bộ não suy nghĩ, chẳng thể dùng lời nói văn tự diễn đạt, cho nên, Đại Thừa Khởi Tín Luận nói: Lìa “tướng tâm duyên”, “lìa tướng văn tự …”
Nên biết, những phương tiện do chư Phật chư Tổ thiết lập chỉ muốn khiến chúng sanh ngay đó khai ngộ, chứ chẳng phải muốn chúng sanh nghiên cứu tìm hiểu lý đạo, nên chẳng thể xem như một học thuyết để nghiên cứu mà chia ra nhiều học phái.
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thật quán cũng là phá: Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá. Như các phẩm Quán Như Lai, Quán Niết Bàn thuộc về phá pháp vô vi, những phẩm Quán Nhân Duyên, Quán Khứ Lai thuộc về phá pháp hữu vi. Hữu, vô tất cả đều phá, phàm có nhị biên tương đối đều phá.
Chư Phật chư Tổ dung pháp phá làm phương tiện để phá sự chấp trước của chúng sanh. Chúng sanh có sở chấp nào thì phá cái sở chấp nấy. Nếu chúng sanh chẳng chấp trước thì pháp phá cũng thành dư thừa. Nay chúng tôi biên tập Yếu Chỉ Trung Quán Luận này, chỉ ở trong mỗi phẩm rút ra vài kệ chủ yếu, để sáng tỏ yếu chỉ về pháp phá của tác giả mà thôi.
Lời kết:
Pháp sư Diệu Nhân, ngày 22 tháng 12 năm 1983, khi đọc Nhập Trung Luận, có bút ký rằng: Các đại luận sư Ấn Độ như: Phật Hộ, Thanh Biện, Nguyệt Xưng, Tịnh Mạng, đều kế thừa học thuyết Trung Quán của ngài Long Thọ, nhưng vì quan điểm chẳng đồng cho với chẳng cho “có ngoại cảnh” mà sanh ra học phái chẳng đồng.
Thanh Biện luận sư phá Duy Thức Luận, trong danh ngôn kiến lập tông phái cho “có ngoại cảnh”, gọi là “Kinh Bộ Hạnh Trung Quán Sư”. Tịnh Mạng luận sư thì lập ra thuyết “vô ngoại cảnh”, phái này gọi là “Du Già Hạnh Trung Quán Sư”.
Nguyệt Xưng luận sư thì cho là Trung Quán Kiến của Phật Hộ luận sư thù thắng nhất mà theo phái Phật Hộ, lại nói đời sau phần nhiều Trung Quán Sư đều tùy thuận học thuyết Phật Hộ và Nguyệt Xưng. Còn các phái Tát Ca, Ca Cử và phái Cách Lỗ của Phật giáo Tây Tạng cũng theo Trung Quán Kiến của Nguyệt Xưng luận sư, đồng thời kiến lập Nhật Trung luận Tụng và Giải Thích, cũng cho biết danh hiệu phái Ứng Thành và phái Tự Tục của Trung Quán …
Than ôi! Tác giả dùng Trung Quán để phá kiến chấp của nhị biên tương đối, nếu nhị biên đã phá thì đâu có cái “trung” để an lập? Tại sao các đại luận sư Ấn Độ, mỗi mỗi đều có “Trung Quán Kiến” của họ mà sanh ra nhiều học phái chẳng đồng, như danh hiệu bốn phái kể trên, thậm chí ảnh hưởng Phật giáo Tây Tạng cũng sanh “Trung Quán Kiến”. Nếu theo đó suy luận thì Phật giáo các nước khác cũng có thể bị nhiễm kiến chấp của họ mà chẳng tự biết, khiến chư Phật chư Tổ muốn phá mà hơi sức đâu phá hết!
Trung Luận là vị thuốc phá kiến chấp nhị biên, nếu chấp thuốc thành bệnh thì chẳng thể trị, như trong phẩm phá “Hành” đã ghi rõ vậy. Nếu bút ký của pháp sư Diệu Nhân là thật, thì các luận sư kể trên cũng thuộc về kẻ chư Phật chẳng thể giáo hóa ư?
Phẩm phá “Hành”:
Hỏi:
Như kinh Phật sở thuyết,
Hư vọng chấp lấy tướng.
Vì vọng chấp chư hành,
Nên gọi là hư vọng.
Phá:
Kẻ hư vọng chấp lấy,
Trong đó lấy cái gì?
Phật thuyết những việc này,
Muốn hiển bày nghĩa không.
Vì các pháp khác nhau,
Biết đều là “vô tính”.
Tính vô pháp cũng vô,
Vì tất cả pháp không.
Đại Thánh thuyết pháp không,
Vì lìa chư kiến chấp.
Nếu lại thấy có không,
Phật chẳng thể giáo hóa.
Giải thích:
“Hành” là hành vi biến hóa. Hành vi biến hóa sát na sanh diệt, nên Phật nói chư hành vô thường. Vô thường thì chẳng thật, chẳng thật nên hư vọng, hư vọng thì chẳng thể chấp lấy. Phật nói hư vọng chẳng thể chấp lấy là muốn hiền bày nghĩa không vậy. Vì các pháp khác nhau thì mỗi mỗi chẳng tự tánh, pháp chẳng tự tánh thì pháp chẳng có, nên nói tất cả pháp không.
Phật thuyết pháp Không là để phá 62 thứ kiến chấp và phá phiền não của nghiệp ái vô minh. “Không” 1à công cụ dùng để phá chấp, nếu trở lại chấp không thì người ấy chẳng thể giáo hóa. Như có bệnh mới cần uống thuốc, nếu chấp thuốc thành bệnh thì chẳng thể trị. Cũng như lửa từ củi ra, dùng nước có thể diệt lửa, nếu lửa từ nước ra thì phải đùng cái gì để triệt?
“Không” dụ cho nước, có thể dập tắt những lửa phiền não, nếu lại ở nơi “không” mà sanh khởi kiến chấp, hoặc cho là có cái không, hoặc cho chẳng có cái không, vì tranh chấp “hữu” “vô” lại sanh khởi phiền não nữa.
Nếu dùng “không” để giáo hóa người này thì họ nói tôi biết “không” đã lâu, nếu lìa “không” thì chẳng có đạo Niết bàn. Như kinh nói: “Không, vô tướng, vô tác, nơi ba cửa này được giải thoát”, đấy chỉ là ngôn thuyết mà thôi. (Không, vô tướng thì chẳng tu, vô tác thì không có tu, vậy đâu thể giải thoát).
Hỏi: Con tập trung tham câu “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Lúc trong ý niệm hỏi thì con nhìn vào câu hỏi đó, bất chợt có người nhà mở quạt máy, con ngồi đó nhưng hoàn toàn không biết mở quạt vào lúc nào. Như vậy con có rơi vào vô ký hay lọt vào hôn trầm không?
Đáp: Ông nói tập trung tinh thần là sai lầm. Tổ sư dạy tham thiền không nên tập trung tinh thần, không nên cố gắng, ít phí sức chừng nào tốt chừng nấy, tập trung lâu ngày sẽ bệnh. Chỉ cần giữ cái không biết: Hỏi câu thoại là kích thích niệm không biết, còn khán là nhìn chỗ
không biết và giữ cái không biết đó được kéo dài, chỉ là vậy thôi. Nếu biết thì chẳng phải nghi tình; biết có nghi tình cũng chẳng phải, biết nghi tình nhỏ cũng chẳng phải, biết nghi tình lớn cũng chẳng phải, phàm có cái biết tức không phải tham thiền, tham thiền là không biết.
Hỏi: Như vậy khi con ngồi được một lúc thì …
Đáp: Khỏi cần ngồi nữa! Tham thiền là đi, đứng, nằm, ngồi đều được, tham thiền chẳng phải ngồi thiền, ngồi thiền chẳng phải tham thiền, tham thiền cũng không có nhập thiền và xả thiền, đã chấp ngồi nên mới có xả. Lục Tổ nói trong Phẩm Tọa Thiền của Pháp Bảo Đàn:
“Đạo do tâm ngộ bất tại tọa”, ngộ là do tâm, chẳng phải do thân, ngài còn nói “Ngồi lâu trói thân, có ích lợi gì!” và có một bài kệ phá chấp ngồi:
Lúc sống thì ngồi hoài,
Khi chết thì nằm mãi.
Chấp giữ bộ xương thúi,
Làm sao công phu được?
Nay người ta cứ chấp cái ngồi, cho ngồi lâu là cao, như thế là sai lầm, là hại người, ông cũng bị trúng độc cái đó.
Hỏi: Con theo dõi công phu của mình thì con thấy, như vật đến thì nhìn thấy, sau cái thấy đó niệm nổi lên, con vẫn giữ cái thấy đó thì tự nhiên nó mất đi, con chẳng quan tâm nó mất hay nổi là tùy nó, vậy như thế nào?
Đáp: Do là tự dối mình thôi! Ấy cũng như đi xem đá banh hay xem hát kịch, lúc đang xem vì kịch hấp dẫn rồi quên cảnh xung quanh, đến chừng hết thì vẫn trở lại bình thường. Có nhà triết học phương Tây cũng sáng lập cái đó nhưng đối với Phật pháp coi đó như ác đạo tà ma.
Hỏi: Quyển Cội Nguồn Truyền Thừa của ngài Nguyệt Khê nói “Nhìn chỗ sơn cùng thủy tận” có giống chỗ Sư phụ dạy hỏi và nhìn không?
Đáp: Sơn cùng thì không có, thủy tận cũng không, không có thì không biết, như vậy đâu có khác! Lời nói khác nhưng ý chẳng khác. Như nói “Tâm như hư không vô sở hữu”, vô sở hữu thì chẳng trói buộc, gọi là giải thoát, vô sở hữu thì trống rỗng nên chẳng khứ lai, gọi là Như Lai, trống rỗng khắp không gian thì tự nhiên khắp thời gian chẳng gián đoạn, gọi là Niết bàn… Mặc dù danh từ khác nhau nhưng ý thì chẳng khác, cũng là trống rỗng vô sở hữu.
Sơn cùng thủy tận là không có, tức trống rỗng, trống rỗng không có cái gì thì lấy gì để biết? Nên không biết.
Hỏi: Tại sao phải “Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ?”
Đáp: Nếu có sở đắc, có sở cầu, có sở sợ thì có ta, có ta thì chẳng phá được ngã chấp, dẫu cho tu thành cũng thành tà ma ác đạo. Nên chánh pháp phải phá ngã chấp, phá ngã chấp phải thực hành không có cái ta. Không có cái ta lấy gì để cầu? Ai đắc? Ai sợ? Vì vậy, không có ta nên không có đắc, không có cầu, không có sợ.
Hỏi: Người tham thiền khi lâm chung bị đau đớn lại sợ, lúc đó phải làm sao?
Đáp: Nếu hành giả tham thiền giữ được cái không biết thì làm sao có sợ hãi, biết sợ hãi là biết rồi, tức không có tham thiền.
Hỏi: Tâm vốn bất sanh bất diệt, bất khứ bất lai, tại sao người ta chết chỉ thay đổi cái khác mà lại quên tiền kiếp của mình?
Đáp: Vì họ vẫn còn ở trong chiêm bao. Nếu đã nhảy ra ngoài chiêm bao thì làm sao có tiền kiếp, hậu kiếp và sanh tử? Sanh tử, tiền kiếp, hậu kiếp là ở trong chiêm bao mới có, khi ngộ rồi tức nhảy ra ngoài chiêm bao thì mấy cái đó hoàn toàn kết thúc.
Hỏi: Lúc ngồi thiền nhắm mắt thì vọng tưởng nổi lên, mở mắt thì không có vọng tưởng, lúc đi kinh hành nhắm mắt không có vọng tưởng, mở mắt lại có, như vậy làm sao trị?
Đáp: Khỏi cần trị, cứ hỏi và nhìn để giữ cái không biết, không biết làm sao có vọng tưởng? Cũng chẳng biết không có vọng tưởng nữa. Biết có vọng tưởng là biết, biết không có vọng tưởng vẫn là biết, nếu hỏi và nhìn thì mấy cái kia cũng giải quyết luôn.
Hỏi: Con tham thoại đầu không nghĩ gì hết, như thế có phải nghi tình không?
Đáp: Biết không có nghĩ đã là nghĩ rồi.
– Khi tham thoại đầu, mắt con nhìn cảnh vật bên ngoài vẫn thấy, vậy như thế nào?
– Như vậy làm sao gọi là tham thiền? Không biết thì không thấy, làm sao thấy được? Thấy tức biết rồi!
– Nếu không thấy làm sao đi đứng tới lui?
– Không đi đứng tới lui thì không đi đứng tới lui. Nay tôi hỏi ông, ông biết đói bụng không?
– Dạ, biết.
– Ông thấy cái bụng không?
– Dạ không.
– Không thấy sao biết đói bụng?
– Dạ, tự nhiên đói là con biết.
– Phải rồi! ông không thấy bụng cũng biết đói bụng, vậy khỏi cần thấy cũng đi được mà, phải không?
– Dạ phải, cám ơn Hòa thượng.
Hỏi: Khi con đề lên câu thoại đầu thì con nhìn vào chỗ hoàn toàn không biết gì hết, nhưng vẫn có cái biết của cái không biết, biết rõ ràng thấy chỗ mình không biết đó. Rồi đề tiếp câu thoại đầu nữa, vẫn không biết. Hai niệm vẫn không biết thì con có một ý niệm “làm sao thấy được tự tánh là cái gì?” Từ chỗ không biết đó con mới chăm bẩm sao cho thấy được tự tánh? Mà trước sau đều không thấy, thành ra con thấy rất mệt mỏi và có lúc rất đau đầu, con không biết mình rớt vào chỗ nào?
Đáp: Như vậy là sai lầm lớn, vì dùng cái biết tìm hiểu cái không biết. Tham thiền là không hiểu không biết, nay chẳng những không chịu chấm dứt, lại dùng cái biết đó tìm hiểu thêm, tức là tìm hiểu cái nghi tình để biết cái nghi tình. Biết cái không biết vẫn là biết, nếu không biết, làm sao biết mình biết cái không biết? Nếu thật không biết thì làm sao biết cái biết và cái không biết?
Bây giờ cứ hỏi và nhìn để chấm dứt tất cả tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ, giống như người khờ ngốc không biết gì mới đúng. Hễ còn biết rõ ràng “có nghi tình không biết” là không đúng.
Hỏi: Con đã tham câu “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?” rồi con thấy câu “Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì”câu này có nghi tình hơn câu trên, vậy có nên đổi câu thoại đầu để tham không?
Đáp: Tôi hỏi ông: Khi chưa có trời đất ông là cái gì? Biết không?
– Dạ không biết.
– Không biết là đúng rồi, như vậy cần gì đổi nữa! Không biết thì cứ nhìn chỗ không biết đó, thì cái kia cũng nhìn chỗ không biết vậy!
– Con thấy câu trên dễ nhìn hơn?
Nếu có dễ và khó thì khác rồi ? Biết mới có khác, không biết làm sao có khác được!
Hỏi: Khi con tham câu “Khi chưa có trời đất ta là cái gì” lúc ngủ có chiêm bao thì hiện cảnh giới, khi tham câu “Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì?” lúc ngủ không còn chiêm bao, vậy như thế nào?
Đáp: Đó là còn để ý cái biết, còn ham cái biết, bây giờ cứ giữ cái không biết là được.
Hỏi: Thể nào sám hối thập tự mười phương Tăng?
Đáp: Hỏi câu thoại đầu và giữ niệm không hiểu không biết là chơn sám hối. Vì thoại đầu là tâm niệm không nổi lên thì vọng tâm được ngưng hoạt động. Cho nên, có bài kệ:
Tội từ tâm khởi lấy tâm sám,
Tâm nếu diệt rồi, tội liền tiêu.
Tội tiêu tâm diệt thảy đều không,
Ấy mới gọi là chơn sám hối.
Hỏi: Có phải ngài Ma Ha Ca Diếp chưa viên tịch, còn nhập định ở núi Kê Túc chờ Phật Di Lặc ra đời?
Đáp: Vì chấp có sanh tử nên mới thấy có viên tịch, kiến tánh rồi biết vốn chẳng có sanh tử, chẳng sanh tử làm sao có viên tịch hay không viên tịch? Tâm như hư không vô sở hữu, trống rỗng thì chúng trói buộc, nên gọi là giải thoát. Vốn chẳng bị trói buộc là không có sanh tử.
Hỏi: Ngộ được không có sanh tử tức là liễu thoát sanh tử. Những tội ác đời trước đã làm như: Giết người, cướp của, lường gạt, hãm hại người cô thế … thì người Phật tử làm sao cho hết các tội trên để tu hành khỏi bị chướng ngại? Chúng con có thể sám hối hồng danh trước bàn Phật không?
Đáp: Sám hối không thể diệt tội được. Theo giới luật nhà phật, sám hối chỉ diệt được tội phá giới, chứ không diệt được tội nhân quả. Muốn hết tội nhân quả phải diệt cái tâm, tâm diệt thì tội tiền tiêu.
Muốn diệt tâm phải tu, như tham thiền đến kiến tánh thì bất cứ tội nặng thế nào đều tiêu cả. Tại sao? Vì tất cả tội đều là việc trong chiêm bao, kiến tánh là ở trong chiêm bao thức tỉnh, lìa khỏi chiêm bao thì tất cả việc làm trong chiêm bao không còn. Ví như ở trong nhắm mắt chiêm bao thấy phát tài rất mừng, khi thức thức tìm đồng xu chẳng có, tạo tội cũng vậy, thức tỉnh liền hết. (Sư phụ đã giảng về hai thứ chiêm bao, lược qua).
Hỏi: Muôn niệm từ đâu khởi?
Đáp: Từ bộ não.
Hỏi : Tâm là cái gì?
Đáp: Phật cũng không biết, vì nó chẳng phải là sở tri. Bài Nguồn gốc Phật pháp trong cuốn Yếu Chỉ Phật Pháp có nói đến vấn đề này.
Hỏi: Có phải khi kiến tánh mới biết là cái gì khởi niệm, phải không?
Đáp: Chưa kiến tánh cũng biết: Ban đêm khởi niệm gọi là nhắm mắt chiêm bao, ban ngày khởi niệm gọi là mở mắt chiêm bao. Niệm niệm không dứt đều do vọng tâm ngày đêm hoạt động hoài.
Hỏi: Những người ăn thịt mà không thấy con vật bị giết hay không thấy con vật đau khổ la rên. vậy họ có mắc tội nhân quả không?
Đáp: Có, Kinh Lăng Nghiêm và Kinh Lăng Già nói: “Ăn tam tịnh nhục, ngũ tịnh nhục đều cấm”. Không nghe, không thấy, không vì mình mà giết gọi là tam tịnh nhục rồi thêm cầm thú ăn dư hay con vật tự chết, cộng chung thành 5 thứ, gọi là ngũ tịnh nhục. Chúng ta dùng đồ có liên quan đến thân thể của con vật thì cũng dính líu nhân quả, như dùng giày dép làm bằng da thú, áo lông thú …
Hỏi: Theo lời Phật dạy “nhân nào quả nấy” con không hiểu tại sao cứ vào ngày rằm tháng Giêng, hàng Phật tử đến chùa nhờ quý thầy cúng sao giải hạn, thậm chí cũng có quý thầy thúc giục quở trách Phật tử nào không cúng sao thì năm đó sẽ gặp rắc rối về bổn mạng. Vậy điều này có hợp chánh pháp không?
Đáp: Những việc này gọi là tà mạng thực, nên Phật cấm, nhưng người ta không chịu nghe lời Phật dạy. Nếu đã tin nhân quả thì còn hỏi những việc đó làm chi! Vì người đó không tin nhân quả nên mới hỏi.
Hỏi: Minh Tâm kiến tánh thì lấy cái gì để minh, lấy cái gì để kiến?
Đáp: Tâm như hư không vô sở hữu, làm sao lấy gì để minh để kiến? Vì tất cả lời nói đều có ngữ bệnh, như trong kinh nói “Từ vô thỉ đến nay”, đã vô thỉ làm sao có đến nay? Phải hữu thỉ mới có đến nay; rồi nói “Kiến tánh thành Phật”, tánh làm sao kiến? Nếu tự tánh thành sở kiến thì có năng sở, đâu phải bất nhị? Cho nên, tất cả văn tự và lời nói chỉ là phương tiện, nếu chấp phương tiện cho là thật thì học cũng uổng công.
Hỏi: Tu thiền dễ đưa đến thanh tịnh giải thoát? Tại sao có vài vị tu thiền một thời gian lại bị điên?
Đáp: Tham thiền không phải muốn thanh tịnh, cũng không mở trói để giải thoát. Tại sao? Vì tâm như hư không trống rỗng, tại có cái Ta, muốn có sở đắc, có sở cầu, có sở sợ nên ma mới nhập được. Nếu không có cái Ta thì ma nhập vào đâu? Những người hỏi câu hỏi này là do bệnh chấp thật quá nặng.
Hỏi: Phật nói trong Phẩm Phổ Môn về nước Quỷ La Sát vậy Quỉ La Sát có ở cõi Nam Diêm Phù Đề này không?
Đáp: Phật nói “Vạn pháp duy tâm tạo, tâm mình chấp thì có, chẳng chấp thì không có. Đại Trí Độ Luận nói “Do chấp Phật thì có Phật, chấp Bồ tát thì có Bồ tát, chấp Đại thừa thì có Đại thừa … nếu tất cả tánh không thì tất cả trống rỗng”. Tất cả do chấp nên mới có, có và không là tương đối, thuộc sản phẩm của bộ não. Còn thực tế thì chẳng dính đáng đến có và không. Nếu chấp có và không là lọt vào biên kiến trong năm thứ ác kiến.
Hỏi: Ngài Quán Thế Âm được cúng dường xâu chuỗi ngọc vô giá, sao ngài không nhận?
Đáp: Chư Phật chư Tổ muốn chúng ta được ngộ, nếu chúng ta chấp thật thì không bao giờ ngộ được. Cái vô giá là bản tâm của chúng ta, ngộ được cái tâm mới thật vô giá, nếu chẳng ngộ, đã được vật vô giá, sau khi chết cũng chẳng được gì.
Bây giờ đã có thế lực cao, có sự nghiệp lớn, thành công to, tiền của nhiều, đầy châu báu vô giá v.v… cũng đâu làm chủ những cái ấy được! Không muốn lìa mà nó vẫn lìa, thân này không muốn bệnh nó cũng bệnh, không muốn chết nhưng nó cũng chết … tự mình còn không làm chủ được, có vật vô giá được ích lợi gì!
Hỏi: Trong lịch sử Thiền tông có ghi: Hòa thượng Cửu Chỉ được ngộ đạo do Thiền sư Thiên Long khai thị giơ một ngón tay, sau này đệ tử cũng bắt chước giơ một ngón tay, ngài biết được mới lập phương tiện mài con dao thật bén để trong túi áo. Một hôm hầu trà. Hòa thượng hỏi, đệ tử giơ ngón tay lên, Hòa thượng chặt đứt. Như vậy Hòa thượng có lỗi không?
Đáp: Người viết sách vì không hiểu gì hết, công án Thiền cũng không biết mà viết ra như thế rất hại người, là tội địa ngục. Công án như thế này:
Hòa thượng Cửu Chỉ chưa ngộ mà tưởng mình đã ngộ, một hôm đang ngồi ở thiền sàng, gặp Ni cô Thật Tế từ ngoài bước vào chùa không chịu bỏ nón xuống, Cửu Chỉ nói:
– Xin cô lấy nón xuống.
Ni cô đi ba vòng rồi nói ba lần: Nói được thì ta bỏ nón xuống.
Cửu Chỉ nói không được, cảm thấy mắc cỡ. Ni cô định ra đi, Cửu Chỉ muốn xin chỉ giáo, nói:
Trời tối rồi, mời Ni cô ở lại một đêm.
Ni cô nói ba lần: Nói được thì ta ở lại.
Cửu Chỉ vẫn không nói được, Ni cô bỏ đi.
Trong Phật pháp, Tỳ kheo ni có bát kỉnh đối với Tỳ kheo, tức là: Tỳ kheo ni gặp Tỳ kheo phải đánh lễ, cho dù Tỳ kheo ni một trăm tuổi hạ cũng phải đảnh lễ Tỳ kheo mới thọ giới. Nhưng Tỳ kheo ni kiến tánh thì Tỳ kheo phải đảnh lễ Tỳ kheo ni.
Cửu Chỉ cảm thấy hổ thẹn, tự nghĩ: “Mình là đại trượng phu mà không bằng người nữ”, định bỏ chùa đi tham học, nhưng đêm đó chiêm bao thấy thần Hộ pháp cho biết: “Ông khỏi đi, ngày mai sẽ có thiện tri thức đến”.
Sáng ra, Thiền sư Thiên Long đến, Cửu Chỉ tiếp đãi tử tế rồi đem chuyện Ni cô Thật Tế kể cho Thiền sư nghe, nhờ Thiền sư chỉ dạy. Thiền sư Thiên Long không nói gì cả, chỉ đưa lên một ngón tay thì Cửu Chỉ liền ngộ.
Về sau, hễ có người đến hỏi pháp thì ngài đưa một ngón tay lên, thị giả thấy và bắt chước, có ai hỏi cũng đưa ngón tay lên. Người ta lại nói với Cửu Chỉ:
– Thị giả của ngài thuyết pháp cũng hay vậy.
– Thuyết pháp như thế nào?
– Có ai hỏi pháp thì thị giả cũng đưa ngón tay lên.
Cửu Chỉ mài sẵn con dao thật bén để trong túi áo, một hôm thị giả bưng trà đến, ngài hỏi:
– Thế nào là Phật?
Thị giả đưa ngón tay lên theo thói quen, ngài liền lấy dao chặt đứt ngón tay, thị giả hoảng sợ bỏ chạy, ngài rượt theo và bảo: “Dừng lại?” Thị giả đứng lại nhìn, ngài hỏi:
– Thế nào là Phật?
Thị giả giơ tay lên, không thấy ngón tay liền ngộ.
Hỏi: Khoa học hiện đã phát minh vô sinh và thực hiện ở con bò con cừu, rồi cũng thực hiện bằng cách cấy mô, như vậy con người này do khoa học tạo ra, có phải là chúng sanh bình thường không?
Đáp: Khoa học không chế tạo cơ nhân được, phải nhờ cơ nhân sẵn có, cũng như mình ghép cây này với cây kia, nếu không có cây thì làm sao ghép được? Họ phải dùng tế bào người đó, nếu không thì chẳng thể tự tạo ra tế bào.
Dùng tế bào con dê này thì giống con dê này, chứ không thể giống con dê khác, vì mỗi mỗi cơ nhân khác nhau. Trong cuốn Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21 đoạn đề cập về đầu thai có nói rõ hơn sinh lý giải phẫu học của Đại học Mỹ:
“Muốn thuyết minh tình trạng luân hồi của nhân loại nên nhờ câu tụng của Huyền Trang Đại sư để chứng minh:
Bát Thức Quy Củ Tụng có câu: “Khứ hậu lai tiên tác chủ công”, hấp lực tỏa ra do cộng nghiệp của mình và cha mẹ khi cha mẹ giao hợp, khiến thức thứ Tám đến trước nhất (lai tiên), khi chết thức này rời cơ thể sau cùng (khứ hậu). Do tánh chấp ngã của thức thứ bảy kết
hợp với sinh lý của cơ thể, mà làm chủ nhân nơi thân này, đồng thời do tinh cha trứng mẹ kết hợp hình thành thai nhi, nhờ bát thức làm cơ nhân (DNA) mà dần dần hình thành hệ thống thần kinh của bộ não, cùng khắp tác tế bào và ngũ tạng lục phủ của toàn thân, do bộ não làm thủ tướng.
Do sự lôi kéo của ngã chấp, khiến lục thức với lục căn hợp tác mà nghe theo lệnh của bộ não. Nhưng lục căn thuộc sắc pháp (thể vật chất), lục thức thuộc tâm pháp (thể tinh thần), căn có thể hoại diệt, thức thì chẳng thể hoại diệt. Nếu tu hành đến kiến tánh thì chuyển được bát thức thành tứ trí mà ra khỏi luân hồi, chấm dứt sự sanh tử, dứt hẳn sự đầu thai chuyển thế, tự do tự tại vĩnh viễn, chẳng còn tạo nghiệp và bị nghiệp lực trói buộc.
Thức thứ tám là kho chứa tất cả chủng tử thiện ác của kiếp trước làm cơ nhân, cái đó mỗi mỗi khác nhau, nên cơ nhân của mỗi người mỗi khác. Phải dùng cơ nhân bồi dưỡng đều qua tử cung của người đàn bà mới thành thai nhi. Bộ não làm thủ tướng, nhưng có ba bộ phận: Tìm hiểu, suy nghĩ và ghi nhớ.
Bộ phận ghi nhớ mà nhà khoa học đã bắt chước chế tạo thành máy vi tính, còn hai bộ phận tìm hiểu và suy nghĩ, cũng có nhà khoa học nói sau này sẽ ra đời. Vì đó là vật chất, có thể y theo mà chế tạo cái máy, ví như ra đa là bắt chước con dơi. Con dơi không có con mắt, nhưng bay không đụng vật là nhờ có ra đa vậy.
Hỏi: Lúc chưa tạo thiên lập địa thì mọi người ở đâu?
Đáp: Chỗ này để các vị tham, không được giải thích, thế mới có câu thoại đầu “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?”. Nếu có thể giải thích thì có thể tìm hiểu, cứ giữ cái không biết mãi, rồi đến chỗ thoại đầu mới kiến tánh thành Phật. Sau này các vị ngộ rồi sẽ tự biết, chưa ngộ mà đoán mò bậy bạ là sai lầm, vì không thể giải được.
Hỏi: Phật tánh siêu việt logic, có đồng với câu “Cứu cánh cùng tột, bất tồn quỷ tắc” của Tín Tâm Minh không?
Đáp: Cũng giống như vậy. Nếu có logic thì có tương đối phải có thí dụ. Còn chơn tâm bất nhị, chẳng tương đối thì không thể dùng lời nói để diễn tả, không thể theo logic để chứng minh, nên nói Phật tánh siêu việt logic. Nếu nói đồng là nhị, nói khác cũng là nhị. Tại sao? Người ta nói “Đồng nhất”. nhưng phải có hai cái mới đồng được, như cái này đồng với cái kia; nói “khác” cũng vậy.
Hỏi: Tự tánh cùng khắp, sao bộ não chẳng cùng khắp?
Đáp: Bộ não là vật chất thì bị không gian thời gian hạn chế nên chẳng cùng khắp, còn tự tánh là phi vật chất nên tự nhiên cùng khắp.
Hỏi: Phương pháp hành thiền tự tánh như: Thiền là tỉnh thức, thiền là an nhiên, thiền là điềm đạm, thiền là không vọng tưởng, thiền là ở sáu căn, thiền là khi tụng kinh, thiền là khi niệm Phật … tất cả những đề mục trên, có phải oai nghi tế hạnh của người ta không? Hay là Như Lai Thiền?
Đáp: Chẳng phải Như Lai Thiền, mà là tà ma ác đạo thiền, không phải chánh pháp của Phật dạy. Chánh tháp của Phật dạy là bốn thừa: Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, Tối thượng thừa. (Sư phụ đã dẫn dụ ngài Nguyệt Khê giải thích bốn thừa, lược qua).
Hỏi: Trong tác phẩm Nẻo Vào Thiền Học có viết một đoạn kể lại đối thoại giữa hai vị là Thiền giả và Hòa Thượng:
Thiền giả hỏi: Đạo là gì?
Hòa thượng đáp: Đạo là tâm bình thường của con người.
Thiền giả hỏi: Vậy cần gì phải tu?
Đáp: Nếu có tu thì trái với đạo.
Kính xin Sư phụ giảng: Có ý muốn tu là trái với đạo?
Đáp: Vì vô tu vô chứng, tại không phải tu mà thành.
Hỏi: Nghi sự là gì?
Đáp: Sự là công việc, bất cứ công việc gì đều là sự. Như giải đáp của tôi là sự, các vị đi hương, tọa hương trong Thiền thất cũng là sự, tức làm là sự. Như muốn cất nhà phải theo kiến trúc mà xây tường lợp mái, những việc ấy đều là sự.
Nghi sự của mỗi người mỗi khác, cũng như nghi việc tham thiền có được giải thoát không? Nghi lý tham thiền có đúng lý không?
Hỏi: Tự tánh vốn sẵn có, sao bộ não xen vào tự tánh?
Đáp: Bộ não là nghiệp tạo thành, do chủng tử thiện ác kiếp trước của thức thứ tám đem theo đầu thai. Vì ngã chấp của thức thứ bảy khiến cho lục căn lục thức hợp tác nghe theo lệnh của bộ não.
Bộ não là hệ thống thần kinh theo ngã chấp mà tạo nghiệp nhân thì phải chịu nghiệp quả, chứ chẳng phải là tự tánh, tự tánh bất nhị không có tương đối. Khi chuyển bát thức thành tứ trí mới hiện ra tự tánh bất nhị, còn bây giờ tự tánh bị che khuất, nên lục căn và lục thức nghe theo lệnh của bộ não.
Hỏi: Phật từ tại gia tham thiền có những giai đoạn thử thách đau khổ trong cuộc sống, vậy có phải trả nghiệp không?
Đáp: Có thử thách mới gọi là tu, nếu không có thử thách, giống như người ta nhập thất tự nhất trong phòng, việc ấy chẳng phải tu mà lại có hại, vì không tiếp xúc cảnh vật bên ngoài để khởi tâm động niệm.
Hỏi: Tại sao các Thiền viện chỉ thờ phật Thích Ca và các Tổ Ma Ha Ca Diếp, mà không thờ các vị Phật khác như Phật Di Đà, Phật Quán Thế Âm?
Đáp: Thiền đường ở Trung Quốc không có thờ Phật gì hết. Ngày xưa Bá Trượng sáng lập Tòng lâm không có thờ Phật, bây giờ có chùa chỉ thờ Phật Thích Ca, có chùa thờ đủ thứ, chẳng thể kể xiết. Nhưng Thiền tông không nói đến việc thờ, nếu nói đến thờ thì chẳng phải Thiền tông.
Hỏi: Việc vay trả nhân quả không biết đến chừng nào mới hết?
Đáp: Kiến tánh triệt để thì hết. Vì nhân quả là việc trong mở mắt chiêm bao, kiến tánh thì ra ngoài chiêm bao, bất cứ nghiệp chướng nặng cách mấy, khi được giác ngộ là xong.
Hỏi: Lúc mới tham thiền, vọng tưởng nhiều mà nghi tình mạnh nên con dụng công liên tục, còn bây giờ các vọng tưởng lắng dịu, tâm con được thanh tịnh, sự dụng công không còn như trước, thường hay bị gián đoạn. Con biết những căn bản phiền não vẫn còn nằm sâu trong tàng thức chưa diệt trừ hết, vậy làm cách nào để cho sự dụng công được liên tục?
Đáp: Ấy do chẳng phải vì sanh tử, chỉ vì hứng thú mà tu, khi hết hứng thú thì hết tham. Nên ngài Hư Vân nói: “Năm đầu sơ tham, năm thứ nhì lão tham, năm thứ ba hết hứng thú thì không tham”. Ban đầu hứng thú nên công phu mãnh liệt, sau này hứng thú bớt dần, đến năm thứ ba cũng nghĩ tham luôn.
Nếu vì giải thoát sanh tử thì khi nào giải quyết được sanh tử mới hết tham, tức kiến tánh triệt để rồi mới xong việc.
Hỏi: Người phát đại nguyện sanh về Tịnh Độ, nếu giết một con mèo để cứu một vạn con chuột, thì người ấy có trái với đại nguyện đã phát không?
Đáp: Trái.
Hỏi: Chánh trí là gì? Có đồng nghĩa Như Lai không?
Đáp: Chánh trí là trí Bát nhã không có qua bộ não. Diệu dụng của Phật tánh không qua bộ não, nhưng nó làm xong công việc của bộ não mà bộ não làm không được dụng của nó là như như.
Ngũ pháp gồm: Tướng, danh, phân biệt, chánh trí, như như. Nay lược giải như sau:
1/ Tướng: Phàm là vật thể hữu hình mỗi mỗi đều có sự cao thấp, dài ngắn, lớn nhỏ.,màu sắc, chất lượng, luôn cả những khái niệm vô hình như ảo tưởng do sự tưởng tượng dựa theo vật thể hữu hình cũng vậy. Cả hai thứ hữu hình và vô hình đều gọi là tướng.
2/ Danh: Y theo tướng hữu hình và vô hình lập ra tên gọi, gọi là danh.
3/ Phân biệt: Đối với danh tướng kể trên, trải qua sự tư duy phân tích để nhận thức sự thật giả, tốt xấu, giá trị, chất lượng, thị phi, tà chánh v.v… gọi là phân biệt.
4/ Chánh trí: Trí thức chẳng nhờ tác dụng của bộ não, mà do công năng tự động của trí Bát nhã tự hiện, là vốn sẵn có của Diệu giác (Bộ não chẳng thể biết được), có sự tồn tại khách quan. Cái trí huệ chẳng cần tác ý của bộ não mà tự hiện này, là trí huệ chẳng bị không gian và thời gian hạn chế, gọi là chánh trí.
5/ Như như: Do nơi chánh trí tự động phát huy, chẳng kể ngày đêm, cổ kim, luôn luôn như bản lai thực tế từ vô thỉ đã sẵn có, chẳng có tương đối, siêu việt biện chứng của logic, gọi là như như.
Gọi chung là Ngũ pháp.
Hỏi: Tham thiền sợ nhất nhận thức thần làm Phật sự hoặc nhướng mày chớp mắt, xoay đầu ngó lại cho là ít nhiều kỳ đặc. Nếu nhận thức thần làm việc chánh là tôi tớ của ác đạo cũng chẳng được, vậy có phải không?
Đáp: Nếu tham Tổ sư thiền thì chỉ hỏi và nhìn là giữ niệm không biết, gọi là nghi tình. Còn biết những cái này là chẳng phải Tổ sư thiền.
Hỏi: Thế nào là Nạp Tăng núi bạc vách sắc?
Đáp: Đây là thí dụ. nếu giữ được nghi tình không biết, thì cũng như núi bạc vách sắt, các thứ phiền não và các thứ khác không vô được.

DUY LỰC NGỮ LỤC QUYỂN HẠ – PHẦN 25

DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN HẠ
(Bài giảng trong các năm (1992 – 1999)
HT. THÍCH DUY LỰC
—-o0o—

Bài giảng trong các năm 1992 – 1999
25.
14/08/97 – 20/08/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc
Hỏi: Do ái dục nên có sanh tử luân hồi, vậy muốn không sanh tử luân hồi phải làm sao?
Đáp: Phải thoát ra sanh tử luân hồi, muốn ra khỏi vòng sanh tử phải tham thiền, đến khi kiến tánh sẽ ra khỏi sanh tử. Nói về vấn đề ái dục là của Giáo môn, còn tham thiền chỉ cần giữ được nghi tình đến kiến tánh chẳng cần biết ái dục hay không ái dục, hễ giữ được nghi tình thì ái dục làm sao nổi lên? Không những ái dục, không ái dục cũng chẳng nổi lên. Ái dục là dục vọng, không dục vọng cũng chẳng nổi lên, vì dục với không dục là tương đối, nên không cần biết tới.
Hỏi: Người xưa nói: “Tham thiền học đạo là lầm dụng tâm, thành Phật thành Tổ là lầm dụng tâm. Ngoài trừ những cái này ra, làm cái gì chẳng gọi là lầm dụng tâm?” là như thế nào?
Đáp: Ấy là bản tâm vô sở hữu như hư không, nguồn gốc của Phật pháp là như hư không vô sở hữu, nguồn gốc của vũ trụ cũng vậy. Nếu đã vô sở hữu rồi thì ai làm Phật, ai làm Tổ? Hễ kiến lập Phật với Tố là lầm dụng tâm rồi. Ngộ là tại mê, nếu vô sở hữu đâu có mê với ngộ, kiến lập mê ngộ là lầm dụng tâm vậy.
Như bốn bài kệ về chữ TRI của ngài Vĩnh Gia, hễ kiến lập cái biết thì có cái không biết để đối đãi, kiến lập cái sở biết, mặc dù tịch lặng thanh tịnh, cũng là kiến lập, tức có năng sở đối đãi.
Nếu thấu rõ cái vô sở hữu thì lấy gì gọi là thiền, lấy gì gọi là đạo, lấy gì gọi là Phật? Cho nên nói là lầm dụng tâm. Nếu không lầm dụng tâm thì tự nhiên vô sở hữu, dung nạp và ứng dụng, trong bài trích dịch Đại Trí Độ Luận của ngài Long Thọ giải thích rất kỹ, nhiều người đọc rồi cũng không hiểu thấu, chỉ có những người công phu mới lãnh hội được phần nào.
Hỏi: Vừa rồi Hòa Thượng nói tham thiền học đạo là lầm dụng tâm, vậy Hòa Thượng dạy chúng con lầm dụng tâm sao?
Đáp: Đó là do có người hỏi, tôi mới có cái đáp, tức có vấn mới có đáp. Vì hỏi là lầm dụng tâm rồi, mà người hỏi chẳng biết là lầm dụng tâm, qua sự giải đáp rồi mới biết mình lầm dụng tâm, như bây giờ thầy hỏi cũng là lầm dụng tâm vậy. Tôi chỉ là giải thích để cho đừng lầm dụng tâm thôi.
Tâm vốn vô sở hữu, đâu có lầm dụng hay không lầm dụng? Bây giờ nói lầm dụng cũng không đúng, nói không lầm dụng cũng không đúng, vì có sự đối đãi, còn bản tâm là chẳng tương đối, nên gọi vô duyên tri.
Do người hỏi có tâm chấp thật, ví như chấp Phật là thật, chấp đạo là thật, thì đó là lầm dụng tâm, nên ngài Lục Tổ nói bổn lai vô nhất vật thì ở chỗ nào dính bụi trần? Ở chỗ nào lầm dụng tâm? Chỉ cần hỏi và nhìn đi song song, hễ lầm dụng tâm là chướng ngại sự kiến tánh.
Hỏi: Con từ nhỏ tới lớn chẳng nghe lời ai chỉ, bất kể cha mẹ anh em. Con làm những việc trái ngược với đạo lý, bị quả báo rất nặng, nay biết được pháp của Sư phụ, muốn xin qui y và xuất gia. Con về xin phép cha mẹ để được qui y Tam Bảo, trả thân này về cho tứ đại và tiếp tục tu.
Thầy có nói một câu: Gặp hạt giống tốt để cày cấy, sau này đến ngày đến tháng sẽ nẩy mầm, đúng như lời Phật nói.
Đáp: Qui y thì dễ, hãy đăng ký và sẽ tổ chức vào ngày giải thất, còn vấn đề xuất gia để lại sau. Nay tạm làm công quả một thời gian, để người ta xét về hạnh kiểm có tốt không, sau này có giúp ích cho Phật giáo không, thời gian cứu xét thường là ba năm. Nhiều người xuất gia vì buồn chuyện gia đình, cũng có người vì sự nghiệp thất bại, hoặc vì thất tình mà xuất gia, đó chẳng phải chánh nhân, chẳng có ích cho Phật pháp mà chỉ làm hại mà thôi.
Khi xưa muốn xuất gia phải thi, đủ điểm rồi mới cho xuất gia, nay Chùa Tam Bảo là nơi chuyên tu, tứ chúng xuất gia và tại gia, quyền lợi và nghĩa vụ đều bình đẳng, cư sĩ cũng tu như Tu sĩ vậy, khi nào có nhân duyên thì xuất gia cũng được.
Hỏi: Người tham thiền nếu không có kiến giải thì làm sao có chánh tín để tham thiền?
Đáp: Theo Giáo môn cũng biết hữu học còn thấp, đến vô học là cao, nhưng Thiền môn thì siêu việt hữu vô, vô học cũng còn không được, vì vô học với hữu học là tương đối. Nếu bây giờ còn chấp vào tri kiến thì ở mãi hữu học, ví như người học lớp một chẳng chịu lên lớp, đâu thể lên đến vô học? Phải bỏ hữu học mới lên tới vô học, huống là đến vô học rồi cũng còn phải bỏ!
Nếu trong Phật tánh còn có tri kiến, tự tánh nếu không đầy đủ, phải học, thì làm sao nói là như hư không vô sở hữu? Ngài Long Thọ dẫn dụ như hư không vô sở hữu là giải theo Giáo môn, chứ chẳng phải giải theo Thiền môn. Vì Giáo môn là ham kiến giải, nên mới giải thích kỹ càng tỉ mỉ, còn Thiền môn thì khỏi cần giải.
Nói đến hai chữ “Chẳng có”, nếu chấp hai chữ đó cho là chẳng có gì cả vẫn còn không được, là lọt vào biên kiến. Hai chữ “Chẳng có” không phải là đoạn diệt, nếu đoạn diệt thì ai biết chẳng có? ấy cũng như Giáo môn nói “Chỉ cho ý hội, chẳng thể ngôn truyền”. Còn Thiền môn thì ý hội cũng không cho, phải tự ngộ mới được.
Cho nên, hoàng đương pháp Tổ sư thiền thật khó, ngài Triệu Châu là vị Tổ danh tiếng, dưới thiền hội của ngài chỉ có hai mươi người, Tổ thứ chín phái Lâm Tế chỉ có sáu người, nhưng sáu người đều xuất sắc, tất cả hành giả tham thiền sau này đều là con cháu của sáu vị này. Thời nay, trong một tỷ người có được một người kiến tánh cũng đủ vốn rồi.
Hỏi: Việc kiến tánh thì con chưa biết, nhưng nếu sau này Hòa thượng đi vắng, hành giả tham thiền nên căn cứ vào đầu để tham thiền không bị lạc?
Đáp: Không căn cứ vào đâu cả. Mười điều kiện tham Tồ sư thiền, đầu tiên là phải phá ngã chấp và chín chữ “Vô sở cầu, vô sở đắc, vô sở sợ”, hễ thực hành được chín chữ này là bảo đảm, nếu không thì chẳng dám bảo đảm. Cho dù nay có Phật Thích Ca, mà người thực hành không được chín chữ này thì Phật cũng bó tay.
Hỏi: Tại sao hư không vô sở hữu mà dung nạp tất cả vật?
Đáp: Ngài Long Thọ giải thích hư không vô sở hữu nên mới dung nạp, còn mấy cái kia giống như vô sở hữu mà vẫn còn sở hữu: Ví như Phật pháp Đại thừa cũng còn sở hữu, pháp tâm, tâm số, mặc dù không có hình tướng số lượng nhưng vẫn còn sở hữu, nó giống mà khác.
Trong đó ngài phân tích rất tỉ mỉ kỹ càng, ngài tự đặt ra câu hỏi và tự mình đáp. (Phần nguyên văn viết nghiêng và phần chú thích của Sư phụ viết thường).
Nguyên văn như sau:
Hỏi: Tại sao không nói hư không quảng đại dung nạp tất cả vật, mà nói hư không vô sở hữu dung nạt tất cả vật?
Đáp: Hiện tại thấy hư không vô sở hữu, tất cả vạn vật (núi sông đất đai, nhà cửa cây cối v.v…) đều ở trong đó vì vô sở hữu nên dung nạp.
Hỏi: Pháp tâm, tâm sở cũng vô hình tướng, tại sao không dung nạp tất cả vật? (giải: Duy thức học của Giáo môn nói về Tâm vương là tám thức, tác dụng của Tâm vương gồm năm mươi mất thứ tâm sở, như buồn, vui, yêu, ghét v.v … nói chung gọi là pháp tâm, tâm sở hoặc tâm số).
Đáp: Pháp tâm, tâm sở là tướng giác tri, chẳng phải tướng dung nạp. (Giác tri mới biết buồn, vui, yêu, ghét …) lại chẳng có trụ xứ trong ngoài, gần xa (cũng như căn nhà có tướng lớn nhỏ, trong ngoài, gần xa …) chỉ do tướng phân biệt mới biết có khái niệm của tâm.
Sắc pháp có trụ xứ, do sắc mới biết có hư không (Chỗ có sắc thì chẳng phải hư không, chỗ không có sắc mới là hư không), vì sắc chẳng dung nạp mới biết hư không dung nạp. (Ví như chỗ này đã để cái bình rồi, muốn để thêm vật khác thì chẳng được). Bởi do vô minh mới biết có minh, (kỳ thật vô minh là đối với minh, tại chấp vô minh mới nói là có minh.) do khổ nên biết có vui, do chỗ không có sắc nên nói có hư không, chẳng có tướng khác.
Lại nữa, pháp tâm, tâm sở còn có cái nghĩa không dung nạp: Cũng như tâm tà kiến không dung nạp chánh kiến, tâm chánh kiến không dung nạp tà kiến, còn hư không thì chẳng phải vậy, tất cả đều dung nạp.
Lại nữa, Pháp tâm, tâm sở là tướng sanh diệt, là pháp có thể đoạn dứt, hư không thì chẳng thể đoạn dứt. (Như bây giờ mình tu có thể đoạn dứt tà kiến, nếu chẳng đoạn dứt được thì sự tu đâu có lợi ích gì? Còn hư không thì chẳng thể đoạn dứt). Pháp tâm, tâm sở với hư không chỉ giống ở chỗ vô hình vô sắc, chứ không được nói là tất cả đều chẳng khác (Cũng như tám thức và năm mươi mốt tâm sở, với hư không chỉ giống ở chỗ chẳng hình tướng và sắc thể), chứ không được nói là tất cả đều chẳng khác. Do đó nên trong các pháp nói hư không dung nạp tất cả.
Hỏi: Ý tôi hỏi là tại sao chẳng nói hư không quảng đại vô biên dung nạp tát cả vật, mà lại nói vô sở hữu nên dung nạp tất cả vật?
Đáp: Tôi nói hư không chẳng tự tướng, do sắc tướng nói có hư không. Nếu chẳng có tự tướng thì chẳng có hư không, nếu chẳng có hư không thì lấy gì nói quảng đại vô biên?
Hỏi: ông nói tướng dung nạp tức là hư không rồi, tại sao lại nói chẳng có?
Đáp: Tướng dung nạp tức là chẳng có sắc tướng (Chỗ chẳng có vật chất), là chỗ sắc chẳng đến, gọi là hư không. Nếu hư không là thật thì lúc chưa có sắc phải có hư không, nếu chưa có sắc mà có hư không thì hư không vô tướng. Tại sao? Vì chưa có sắc vậy.
Do có sắc nên biết có hư không, vì có sắc mới có vô sắc. Nếu trước có sắc sau mới có hư không thì hư không lại thành pháp tạo tác (Tạo tác là kiến lập, có sự sanh khởi) pháp tạo tác chẳng gọi là thường (Vì hễ tạo tác thì có thành có hoại, chẳng phải là thường, còn hư không là thường, không thể hoại, không ai tạo tác được ). Nếu có pháp vô tướng thì chẳng thể được (vô lý), do đó nên chẳng có hư không. (Chứng tỏ hư không chẳng tự tướng, chẳng có hư không nhưng dung nạp tất cả ứng dụng tất cả. ấy là nghịch với sự hiểu biết của bộ não mà lại là thật tế. Sự hiểu biết của bộ não không đúng với thật tế, nhưng đúng với thật tế thì người ta không chịu, không đúng với thật tế người ta mới chịu, gọi là tập khí phiền não. Nên ngài Lai Quả: “Ta nói thật thì các ngươi không tin, ta nói dối các ngươi mới tin”, cũng là vậy).
Hỏi: Nếu vậy hư không là thường có, bởi do sắc mà có tướng hư không hiện rồi chứng tỏ có hư không ư?
Đáp: Nêú hư không trước đã vô tướng thì sau cũng là vô tướng, nếu hư không trước đã hữu tướng thì tại sao tướng ấy chẳng có sở tướng (Chẳng có tướng sở hữu của hư không?) Nếu trước vô tướng thì sau cũng vô tướng (Chẳng có tướng mạo của hư không). Nếu lìa hữu tướng vô tướng thì chẳng có trụ xứ của tướng (Hữu tướng cũng chẳng phải, vô tướng cũng chẳng phải thì chẳng trụ xứ của tướng). Nếu tướng chẳng trụ xứ thì sở tướng cũng chẳng trụ xứ. Sở tướng chẳng có nên tướng cũng chẳng có, lìa tướng và sở tướng đâu còn pháp nào nữa!
Cho nên, hư không chẳng gọi là tướng, chẳng gọi là sở tướng, chẳng gọi là pháp. chẳng gọi là phi pháp, chẳng gọi là hữu, chẳng gọi là vô. ngôn ngữ cách tuyệt, tịch diệt như vô dư Niết bàn, tất cả pháp khác cũng như thế. (Vì hư không chẳng tự tướng, nên chẳng thể gọi là có hay không, tức tất cả tương đối đều chẳng thể kiến lập vì vô sở hữu vậy. Chẳng những hư không, tất cả pháp khác cũng vậy, nhưng bây giờ người ta chấp các pháp đều thật có, nên mới sanh ra đủ thứ phiền não).
Hỏi: Nếu tất cả pháp đều như thế tức là hư không, tại sao còn lấy hư không để thí dụ?
Đáp: Nhân quả của các pháp đều là hư vọng (Như con gà sanh trứng gà, trứng gà ấp ra con gà, con người cũng vậy, tương sanh với nhau mà không có nhân bắt đầu, nên nói đều là hư vọng chẳng thật), bởi vô minh mới có (Các pháp sánh khởi). Cái hư vọng đó lừa gạt chúng sanh (Vì chúng sanh cho là thật), vì chúng sanh ở nơi các pháp hư vọng sanh tâm chấp trước, mà chẳng phải ở nơi hư không sanh tâm chấp trước, mặc dù hư không cũng là hư vọng. Lục trần hư vọng lừa gạt tâm chúng sanh, hư không dù hư vọng nhưng chẳng phải như thế, cho nên lấy hư không để thí dụ.
Dùng việc thô hiện tiền để phá việc vi tế (Vì sự chấp khó phá mà việc thô thì dễ thấy, việc vi tế khó thấy, nên dùng việc thô chứng minh việc vi tế là hư vọng) như hư không bởi sắc mới có nên chỉ là giả danh (Sắc là vật chất, dùng vật chất để hiển bày hư không), chẳng phải pháp nhất định. Chúng sanh cũng thế, do ngũ uẩn hòa hợp mới có, cũng là giả danh, chẳng phải pháp nhất định. Đại thừa Phật pháp cũng thế, bởi do chúng sanh tánh không, nên chẳng Phật chẳng Bồ tát (Tâm của chúng sánh như hư không vô sở hữu, tức là tánh không, nếu thấu được tâm như hư không vô sở hữu thì chẳng Phật chẳng Bồ tát), bởi do chúng sanh chấp có (kiến lập), nên có Phật có Bồ tát. Nếu chẳng Phật chẳng Bồ tát thì chẳng có Phật pháp Đại thừa. Do đó Đại thừa dung nạp vô lượng vô biên A tăng kỳ chúng sanh (A tăng kỳ là vô lượng số). Nếu thật có pháp thì chẳng thể dung nạp vô lượng chư Phật và đệ tử (Vì chẳng có pháp mới dung nạp tất cả. Ví như nơi này, có chỗ trống rỗng vô sở hữu quí vị mới có chỗ ngồi, mới dung nạp mọi người, nếu là thật có thì làm sao có chỗ trống rỗng để cho quí vị ngồi? Không thể dung nạp. Nên nói “Chẳng có” mới có thể dung nạp, ấy là nghịch với sự hiểu biết của bộ não. Vì theo thói quen và sự hiểu biết, giáo dục là phải chấp thật có, nên cái nào cũng phải thật có: Nhà này là nhà của ta, tiền là tiền của ta, có được căn nhà mà chưa có quyền sở hữu, phải đi lo sao có giấy tờ rồi mới chắc …).
Hỏi: Nếu thật chẳng có hư không, tại sao dung nạp vô lượng vô biên A tăng kỳ chúng sanh?
Đáp: Do nghĩa này (Nghĩa chẳng có mà dung nạp) nên Phật thuyết pháp Đại thừa vốn chẳng có, nên A tăng kỳ chẳng có. A tăng kỳ chẳng có nên vô lượng chẳng có, vô lượng chẳng có nên vô biên chẳng có; vô biên chẳng có nên tất cả pháp cũng chẳng có, như thế nên dung nạp.
(Theo sự hiểu biết của bộ não, chẳng có thì lấy gì để dung nạp? Dung nạp cái gì?).
Nói A-tăng-kỳ, A tiếng Hán dịch là vô, Tăng Kỳ dịch là số, chúng sanh các pháp mỗi mỗi đều chẳng bờ bến nên gọi vô số. Dùng số để đếm mười phương xa gần của hư không đều chẳng bờ bến, nên gọi vô số. Đem tính số để đếm từng cái một của sáu Ba-la-mật, mỗi mỗi bố thí, mỗi mỗi trì giới v.v… vốn chẳng có số, dùng số ấy để đếm bao nhiêu chúng sanh cho đến Phật thừa, quá khứ, hiện tại, vị lai đều chẳng thể đếm, ấy gọi là vô số.
Cũng có người nói số ban sơ là 1, chỉ có số 1, 1 thêm 1 nên thành 2, thế thì tất cả chỉ là 1, chẳng có số khác. Nếu tất cả đều là 1 tức là vô số vậy. Cũng có người nói tất cả pháp hòa hợp nên có tên gọi, ví như chiếc xe do trục vành xe, vỏ xe . . . hòa hợp thành tên gọi chiếc xe, thật thì chẳng có pháp nhất định. Một pháp chẳng có thì nhiều pháp cũng chẳng có, vì trước một sau mới nhiều. Lại nữa, dùng số để đếm vật, vật chẳng có thì số cũng chẳng có. Nói vô lượng (không thể đo lường) cũng như dùng đấu để lường gạo, dùng trí huệ đo lường các pháp cũng như thế.
Các pháp tánh không, nên vô số, vô số nên vô lượng, vô lượng nên vô biên, chẳng có thật trí (Tâm Kinh nói Vô trí diệc vô đắc), như thế làm sao có tướng nhất định của các pháp để đo lường ! Vì vô lượng nên vô biên, lượng gọi là tổng tướng, biên gọi là biệt tướng; lượng là ban sơ, biên là cuối cùng.
Lại nữa, từ cái ta cho đến kẻ biết kẻ thấy vốn chẳng có thì thực tế cũng chẳng có, thực tế chẳng có nên vô số cũng chẳng có, vô số chẳng có nên vô lượng chẳng có vô lượng chẳng có nên vô biên chẳng có; vô biên chẳng có nên tất cả pháp cũng chẳng có. Do đó nên nói tất cả pháp cứu cánh thanh tịnh, ấy là pháp Đại thừa dung nạp tất cả vậy.
Chúng sanh và pháp hai thứ làm nhân với nhau, nếu chẳng có chúng sanh thì chẳng có pháp; nếu chẳng có pháp thì chẳng có chúng sanh. Trước nói tổng tướng tất cả pháp không, sau nói biệt tướng mỗi mỗi các pháp đều không, thực tế tức là diệu pháp sau cùng. Cái này chẳng có thì cái kia làm sao có! Từ cái tánh bất khả tư nghỉ cho đến tánh Niết bàn cũng đều như thế.

DUY LỰC NGỮ LỤC QUYỂN HẠ – PHẦN 24

DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN HẠ
(Bài giảng trong các năm (1992 – 1999)
HT. THÍCH DUY LỰC
—-o0o—

Bài giảng trong các năm 1992 – 1999
24.
14/07/1997 – 20/07/1997 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc
Hỏi: Thần thông trí huệ của mọi người đồng như Phật, vậy đến khi nào mới hiện ra như Phật được?
Đáp: Chừng nào tất cả sở hữu đều không còn nữa sẽ hiện ra đồng như Phật.
Hỏi: Thế nào là cội nguồn chân thật của Tự tánh?
Đáp: Chỗ trống rỗng vô sở hữu đó tức là tâm của ông, là nguồn gốc chân thật, gọi là Tự tánh, cũng gọi Phật tánh, trí Bát nhã, Vô duyên tri, Chánh biến tri, cũng gọi Bồ đề, Niết bàn, giải thoát, vô trụ. Vì trống rỗng không có chỗ để trụ, nên gọi vô trụ; vì chẳng trói buộc nên gọi giải thoát.
Hỏi: Thế nào là lễ tự tứ?
Đáp: Tự là tự mình, tứ là kiểm thảo. Giải hạ tự tứ là mỗi người tự kiểm thảo trong ba tháng hạ có phạm giới không? Có khi tự mình không biết, phải hỏi tất cả chúng có thấy mình phạm giới không? Hoặc có ai nghe, hoặc nghi ngờ mình phạm giới không? Xin ra cử tội, gọi là kiến, văn, nghi. Nếu người biết mà che giấu không ra cử tội, sau này phát giác, tội che giấu đó đồng như người phạm: Ví như người đó phạm tội Ba-la-di là chín triệu năm, người che giấu cũng bằng tội Ba-la-di chín triệu năm. Cho nên, sống chung trong chúng không dễ phạm tội, vì giám sát lẫn nhau.
Hỏi: Chúng con đến Thiền đường tham thiền, ai cũng muốn kiến tánh thành Phật, tại sao không cho có tâm chờ ngộ?
Đáp: Có đi sẽ đến. không đi không đến, đi nhanh đến nhanh, đi chậm đến chậm, cũng như muốn đi Thành phố Hồ Chí Minh, bất kể đi xe, đi tàu, đi bộ … hễ đi thì sẽ đến, không cần chờ đợi cũng đến. Nếu chỉ suốt ngày nói tôi muốn đi Thành phố …” nói mãi mà chẳng đi thì làm sao đến! Lại nữa, tham thiền là tâm pháp, nếu có tâm chờ đợi là kiến lập, là chướng ngại, là có sở trụ, dẫu cho có ngộ cũng không cho trụ. không cho ôm cái ngộ, nên nói “Ngộ rồi đồng như chưa ngộ”. Nếu còn ôm sự ngộ tức chưa ngộ, vì mê ngộ là đối đãi, người triệt ngộ là hết mê, hết mê thì hết ngộ.
Hỏi: Sư phụ ngày nay hoàng dương Thiền tông, các vị Tổ ngày xưa có nói ra những lời chuyển ngữ hay những hoạt cú cho hành giả đi đến, vậy đời nay đời xưa có khác nhau không?
Đáp: Không khác, nhưng Chuyển ngữ là lời nói vô sở trụ, phải người kiến tánh mới nói ra được, vì đời nay không có người kiến tánh, nên chẳng nói được chuyển ngữ. Do đó có câu “Dù được Xá lợi bao nhiêu, không bằng đáp được một chuyển ngữ của ta”. Vì hễ nói ra được chuyển ngữ tức đã tự do tự tại, tự chủ vĩnh viễn.
Còn “hoạt cú” là người kiến tánh rồi mới sử dụng được, người chưa kiến tánh nói đến đâu trụ đến đó, là tử cú chứ chẳng phải hoạt cú. Ví như nhiều người giảng kinh thuyết pháp, cho tất cả đều là huyễn hóa, lọt vào biên kiến mà tự mình chẳng biết. Kinh Lăng Nghiêm nói: Phi huyễn còn chẳng thể kiến lập, huống là pháp huyễn ? Nay chấp chơn cũng lọt vào biên kiến, chấp giả, chấp vọng … cũng vậy; chấp cái chơn là thật chơn bệnh còn dễ trị, chấp cái vọng là thật vọng mới khó trị.
Hỏi: Những người theo tôn giáo khác đến học Tổ Sư Thiền có phải bỏ đạo bội sư không?
Đáp: Không phải. Trên thực tế, Phật giáo chẳng phải là một tôn giáo, mà là giáo dục, nói chúng sanh, chẳng những nhân loại, tất cả hàm linh đều bao gồm. Nhân loại chỉ là một phần của chúng sanh, trong nhân loại có đủ thứ tôn giáo, kể cả tà ma ác đạo, thế gian công, thương, kỹ, nghệ v.v… chẳng thiếu sót cái nào.
Phật giáo nói chúng sanh bình đẳng, chứ chẳng phải chỉ là tôn giáo bình đẳng hay con người bình đẳng, là tất cả chúng sanh đều cùng một Phật tánh, tất cả Phật pháp chỉ là hiển bày cái tâm của chính mình mà thôi.
Tôi thường dẫn dụ lời của ngài Long Thọ nói “Tâm như hư không vô sở hữu”, vì vô sở hữu nên trống rỗng, trống rỗng nên bao gồm, dung nạp và ứng dụng. Tất cả tôn giáo đều nhờ cái trống rỗng này dung nạp và ứng dụng, cho đến tất cả chúng sanh, sâu bọ, hàm linh, thảo mộc … chẳng cái nào ở ngoài cái vô sở hữu này, đều là đối tượng giáo đục của Phật, kể cả những người phỉ báng Phật cũng vậy.
Hỏi: Chánh pháp nhãn và Tổ sư thiền là hai hay một?
Đáp: Phương pháp tham Tổ sư thiền là đường lối để đi đến chánh pháp nhãn.
Hỏi: Hai danh từ “ tác ý” và “tạo tác” có giống nhau không?
Đáp: Tác ý là ý thức nổi niệm nhưng chưa thực hiện, còn tạo tác là đã thực hiện. Ví như tôi nổi ý muốn lấy cắp cái tách này nhưng chưa hành động, còn tạo tác là đã dời cái tách này ra khỏi chỗ cũ rồi.
Hỏi: Vậy thì tác ý có nhân quả không?
Đáp: Thọ giới Bồ tát rồi hễ tác ý là phạm giới, còn giới Thanh văn thì tạo tác rồi mới phạm, nhưng theo nhân quả thì khởi tâm tác ý đã là phạm.
Hỏi: Sư phụ dạy hành giả tham thiền phải dứt ba cái tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết. Trong khi thực hành công phu, chúng con đề lên câu thoại đầu để phát khởi nghi tình, ngay lúc đó, dù có tác ý hay không, chúng con vẫn lọt vào cái ghi nhớ biết nghi tình rồi?
Đáp: Không phải vậy, tìm hiểu là biết, có nổi lên cái biết mới có thể tìm hiểu, nếu giữ được nghi tình tức không hiểu không biết, vì không biết thì không nổi lên cái tìm hiểu, tự động chấm dứt cái tìm hiểu biết. Hễ khởi lên suy nghĩ tức là biết (biết mình đang suy nghĩ) thì chẳng phải nghi tình rồi! Lại nổi lên cái biết, nói mình có trí nhớ, ấy cũng chẳng phải tham thiền. Tham thiền là mình có trí nhớ hay không đều không biết; nhớ cũng không biết quên cũng không biết, mới gọi là nghi tình.
Theo ông thì tự cho là nhớ hay quên đều có ghi nhớ, ấy là sai lầm. Lại người giữ được nghi tình tự nhiên quên tất cả, nếu chưa quên tức công phu còn cạn.
Hỏi: Có phải Bắc Câu Lô Châu trước kia ở trên quả đất này và đã bị chìm đắm theo thời gian?
Đáp: Trong Phật pháp nói đến bốn đại bộ châu: Quả đất mình đang ở gọi là Nam Thiệm Bộ Châu, còn ba bộ châu kia ở ba hành tinh khác, chứ chẳng phải ở cùng quả đất này. Ví như bốn đại bộ châu là bốn quả địa cầu, ở Bắc Câu Lô Châu thì không có Phật pháp, mọi người đều sống trên một ngàn tuổi, do có phước báo nên hễ khởi niệm muốn ăn là có thức ăn trước mặt, ăn xong tự nó biến mất. Ở đó không có chế độ vợ chồng, sanh con rồi tự nó trưởng thành, chẳng cần ai nuôi, tất cả đều theo tự nhiên. Cho nên, Phật pháp chỉ thể hiện trên ba bộ châu, còn Bắc Câu Lô Châu thì Phật pháp chẳng thể đến được.
Sư phụ khai thị cho chúng ở Chùa Tam Bảo:
Nay đạo tràng này có phải hoàn toàn là Thiền tông chưa? Thiền tông là chuyên tu Tổ sư thiền, Tổ sư thiền thì không có đi đám để kiếm tiền nữa, tất cả chúng sống trong phạm vi của chùa đều phải chuyên tu Tổ sư thiền, phải giữ quy củ của Thiền đường, nếu phạm một lần cảnh cáo, hai lần, ba lần cảnh cáo còn không sửa thì đuổi.
Chùa cung cấp đầy đủ: ăn uống, thuốc men, Tu sĩ hay cư sĩ, quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, để kiến lập một đạo tràng chuyên tu như ở Trung Quốc vậy.
Nay Chùa dã có Ban Hộ Tự, có tài chánh, thư ký, tất cả đều theo tổ chức, nhưng do Ban Chức Sự chùa lãnh đạo để duy trì cho đạo tràng. Ban Chức Sự có thể một tháng, ba tháng hoặc sáu tháng họp một lần để trao đổi công việc, thu chi của chùa phải công bố hàng tháng, những việc nhỏ phải thông qua Ban Chức Sự chùa, việc lớn phải thông qua 2/3 hoặc hơn 1/2 chúng mới được thực hiện, theo thời Phật là phải thông qua 100%.
Theo tòng lâm Trung Quốc, khi đi làm công tác trồng trọt, canh tác là phổ thỉnh đại chúng, ai ai cũng phái tham gia, ngoại trừ những vị chức sự đã có công tác hàng ngày, tất cả thanh chúng đều phải đi làm, tức là: Giờ toạ hương, đi hương thì tập trung công phu, giờ làm việc là mọi người cùng ra làm.
Hỏi: Mặc dù nghe Sư phụ khai thị bản tâm như hư không vô sở hữu, chỗ đó thì con tin, nhưng bằng lòng thì con chưa bằng lòng?
Đáp: Tâm như hư không vô sở hữu, vô sở hữu thì chẳng có người bằng lòng hay không bằng lòng, cũng chẳng có việc gì bằng lòng hay không bằng lòng, nói tin là tin cái gì?
– Tin chỗ Sư phụ nói là hư không vô sở hữu.
– Ấy là ngài Long Thọ nói, và tôi chỉ đem nước miếng của ngài nhổ lại cho nghe thôi, chứ chẳng phải là lời của tôi.
Mặc dù nước miếng nhưng vẫn có hương vị, con vẫn tin như vậy, mà bằng lòng thì chưa bằng lòng.
– Vì có kiến lập sở hữu, nên nghịch với bản thể vô sở hữu.
Hỏi: Vậy xin Sư phụ từ bi khai thị cho con một câu như thế nào, để cho con ổn cái không bằng lòng?
Đáp: Cứ hỏi và nhìn đi song song.
Hỏi: Những gì giải quyết có thực tế như về nghề nghiệp chẳng hạn thì dễ chỉ, còn về việc thực hành tu tâm, sắc tâm vô hình tướng nên rất khó, rất tế nhị. Vậy con xin ngài vận dụng hết ngôn ngữ để diễn tả cách thực hành cho con nắm bắt được, chứ nói nhìn mà không mục tiêu thì con chẳng biết nhìn về đâu?
Đáp: Thì cứ nhìn mãi không thấy gì, không có mục tiêu mới đúng, hễ có mục tiêu là sai lầm, pháp của Phật Thích Ca truyền là vậy.
Ví như ban đầu tôi dùng phương tiện dạy người nhìn vào chỗ đen tối, mọi người lại chấp vào chỗ đen tối đó trở thành mục tiêu; có tối tức có sáng để tương đối. Tự tánh bất nhị chẳng tương đối, luôn cả cái biết cũng không thể kiến lập. (Sư phụ đã giảng về bốn bài kệ nói về chữ TRI của ngài Vĩnh Gia, lược qua).
Hỏi: Vậy là cứ nhìn vào chỗ không biết đó, không có chỗ nhìn vẫn cứ đề lên và cứ nhìn?
Đáp: Cứ nhìn, không có chỗ nhìn, nhìn không thấy gì mới đúng, nếu thấy có chỗ nhìn và nhìn thấy cái gì đó thì không đúng rồi.
Hỏi: Nhưng con nhìn một thời gian rồi tự nhiên câu hỏi cũng mất, mà con cũng không biết mình của tham thiền nữa không !
Đáp: Phải tiếp tục hỏi và nhìn nữa, như vậy sẽ mau đến chỗ chơn tham, vì chơn tham là vô tham, tức không biết mình đang tham thiền, chứ chẳng phải không có tham.
Hỏi: Nhưng ngay chỗ nhìn không biết đó, con lại quên câu thoại đầu và có vọng tưởng nổi lên, cuối cùng con phải giựt mình …
Đáp: Nếu vậy phải đề lại, cũng như ngài Lai Quả có một lần bị ngưng hết hai ngày rồi mới đề lại, đó cũng là việc thường. Phải hỏi và nhìn đi song song, khi nào đến được thoại đầu, câu thoại mới tự mất.
Hỏi: Có phải câu thoại đầu cũng là một ý niệm, mà ý niệm này đưa đến chỗ ý thức chẳng thể tìm đến, nên một thời gian sau khi tham thì câu thoại tự vỡ, ý niệm đó tiêu?
Đáp: Không phải, câu thoại chỉ là kích thích niệm không biết, nếu không có câu thoại để hỏi thì niệm không biết đó chẳng thể nổi lên được, nên phải hỏi và nhìn miên mật.
Hỏi: Trong Thiền Thất Khai Thị Lục, ngài Lai Quả nói không cho buông ý niệm?
Đáp: Thì cái không hiểu không biết đó cũng là ý niệm. Chư Phật chư Tổ rất sợ người ta chấp theo lời nói, như trong Kinh Lăng Nghiêm có bảy chỗ tìm tâm, A Nan cho là tâm ở trong, Đức Phật nói chẳng phải, cho là ở ngoài cũng chẳng phải, cho là ở giữa cũng chẳng phải … bảy chỗ đều nói chẳng phải, nhưng cái chẳng phải của Phật đâu có đúng! Bây giờ cứ y theo lời “chẳng phải” của Phật thì sai lầm. Tại sao? Vì nếu cái tâm không có ở trong thì làm sao cùng khắp? Không có ở ngoài thì làm sao cùng khắp? Cho nên, Đức Phật rất sợ người chấp vào lời Phật, cuối cùng ngài nói “Bốn mươi chín năm chưa từng nói một chữ”, “Ai nói ta có thuyết pháp là phỉ báng Phật …”
Lời của Phật còn chấp không được, huống là lời của ngài Lai Quả? Ấy chỉ là phương tiện tạm thời thôi. Nay bất cứ ở trong hoàn cảnh nào, nhớ hay quên, cứ hỏi và nhìn đi song song, giữ được nghi tình sẽ đưa hành giả đến kiến tánh thành Phật. Chớ dùng ý thức phân biệt nghi tình, phân biệt thoại đầu, phân biệt có phải lọt vào vô ký không, hay vọng tưởng v.v … Cứ phân biệt hoài làm sao công phu miên mật được?
Những gì thầy đang hỏi đều là thói quen phân biệt từ lâu đời rất khó sửa, như bản thân tôi, vẫn biết đó là tập khí nhưng mấy mươi năm nay cũng chưa sửa được.
Hỏi: Nếu tham thiền đến không biết thì dễ phạm qui củ, hễ bị đuổi thì sao?
Đáp: Lúc không biết thì làm sao biết phạm qui củ? Đuổi ra Thiền đường thì cứ ra, vẫn còn giữ cái không biết, chỉ cần có nghi tình, sẽ đưa mình đến chỗ kiến tánh.
Như công án Bà lão đốt am, sau này trở về xin thì bà cũng cho, đâu có sao ! Như Tổ thứ chín của phái Lâm Tế, lúc đầu người học rất đông, đuổi mãi còn lại sáu người, mà sáu người này đuổi hoài không đi. Ở vùng đó rất lạnh, nhất là vào mùa đông, Tổ lấy nước lạnh tạt vào họ cũng không đi, rồi Tổ không cho ở trong nhà, đuổi ra ngoài thì quí vị này ở lại hàng ba, sáng ra, Tổ nói: “Đã ở lại đây ngủ mấy đêm, phải trả tiền cho chùa”. Những người đó đâu có tiền, phải đi xin tiền để trả, rồi lại xin Tổ cho ở lại nữa, sau cùng sáu người đều kiến tánh triệt để và làm Tông sư.
Nay chúng ta, hành giả tham thiền đều là con cháu của sáu vị này. Bị đuổi có sao đâu! Sáu vị này không biết bị đuổi bao nhiêu lần, mà bị đuổi một cách rất thậm tệ nhưng vẫn kiên trì ở lại. Nên biết cổ nhân đời đưa cầu pháp rất kiên tâm, như ngài Nhị Tổ đứng suốt đêm dưới bão tuyết và chặt cả cánh tay. Cho nên, chớ sợ bị đuổi, vô sở sợ mà!
Hỏi: Con rất thích tu thiền nhưng không thích học pháp lý, vậy có được không?
Đáp: Tổ sư thiền không có pháp lý, quét sạch tất cả pháp lý, chẳng còn pháp lý nào cả mới đúng với bản tâm trống rỗng vô sở hữu.
Hỏi: Con nghe một vị thầy nói phải học qua Phật học phổ thông mới tu được?
Đáp: Ấy là Giáo môn, còn đây là Thiền môn, là ở ngoài Giáo môn. Học Giáo môn phải cần văn tự. Thiền môn thì bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền.
Hỏi: Con tham thoại đầu, có ý niệm thành Phật, nên con hỏi “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?” (ngưng một lúc), “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?” (ngưng một lúc), “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?”
Đáp: Trước hết, Sư nổi niệm “muốn thành phật” đã không đúng rồi, thoại đầu là chưa có ý niệm nào cả mới gọi thoại đầu, phải ngoài câu thoại đầu không hiểu không biết ra, chẳng có ý niệm nào khác, câu thoại đầu tự động chấm dứt các ý niệm khác không nổi lên. Lại nữa, cách hỏi câu thoại, nếu có khoảng cách thì có kẽ hở, không miên mật; công phu miên mật không cần tập trung tinh thần, không cần công phu, chỉ cần có một chút nghi tình không hiểu không biết, như một sợi chỉ kéo dài không đứt, vừa hỏi xong hỏi nữa, câu hỏi liên tiếp khít nhau, không kẽ hở, không gián đoạn, hỏi và nhìn đều phải miên mật.

DUY LỰC NGỮ LỤC – QUYỂN HẠ PHẦN 23

DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN HẠ
(Bài giảng trong các năm (1992 – 1999)
HT. THÍCH DUY LỰC
—-o0o—

Bài giảng trong các năm 1992 – 1999
23.
14/06/97 – 20/06/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc
Hỏi: Tại sao nói pháp tham Tổ Sư Thiền là pháp xuất gian?
Đáp: Đối với thế gian thì nói xuất thế gian, sự thật thì pháp thế gian và xuất thế gian chẳng khác. Do người ta có bệnh chấp sai lầm về thế gian, muốn ra khỏi sai lầm đó mới nói là xuất, chứ thế gian và xuất thế gian không khác. Tại sao? Vì tâm chẳng có khác, người thế gian cũng là cái tâm này, người nói tu xuất thế gian cũng là cái tâm này. (Sư phụ đã giải thích tâm như hư không trống rỗng vô sở hữu, lược qua.)
Hỏi: Thế nào là hỏa Tam muội, tánh Tam muội? Và cách ngồi kiết già do Phật Thích Ca hay Thiền sư nào đặt ra?
Đáp: Tất cả đều do người ta đặt ra tên gọi, chứ Phật Thích Ca đã nói vô thỉ vô sanh, vô sanh thì chẳng thể đặt ra, hễ đặt ra là có sự bắt đầu rồi. Người ta đặt ra thiền quán, quán lửa thì gọi là hỏa tam muội, quán thủy thì gọi là thủy tam muội … ấy là do người bày đặt. Còn Tổ sư thiền là chẳng có gì cả, chỉ do Tổ sư từng đời truyền xuống, miễn cưỡng gọi là Tổ sư thiền, chứ không có tên gọi, luôn cả thiền cũng không, vì trống rỗng vô sở hữu, chẳng thể kiến lập.
Lời tác bạch của thầy Trụ trì chùa Tam Bảo:
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch Sư phụ: Con cúi đầu đánh lễ Sư phụ, khi con được gặp ngài, con quyết lòng tin pháp môn đây là của Đức Thích Ca truyền dạy, Sư phụ dạy lại. Từ đó đến nay mười mấy năm, con quyết chí công quả cho Tam bảo để thành tựu cho tất cả chúng sanh, như Sư phụ dạy nam là cha, nữ là mẹ của mình. Con nguyện đời nào trơ về cõi Ta Bà này cũng theo Sư phụ để đền ơn cho Phật và Sư phụ, và tất cả đều thành Phật.
Hôm nay mọi người về đây cùng nhau tu hành, thương nhau như con một cha, nhà một nóc, chúng con thực mừng vui, nguyện đem hết tấm lòng để phục vụ. Nay con cúi đầu lạy hết tất cả chúng Tăng Ni, Phật tử, như lời Sư phụ dạy, con không dám kể lể, chỉ công quả phục vụ đến ngày cuối cùng mà thôi.
Mà chẳng biết là do con ham công quả cho đại chúng thành Phật, hoặc do con lo hoài nên chẳng biết con có tu hay không, thành ra công phu con cũng ít, lâu lâu nhớ, lâu lâu quên, mà ham làm lắm, làm đến chết cũng được. Cho nên, hễ có điều chi sai sót, xin Sư phụ thông cảm.
Đáp: Bây giờ mình có tu thì tự nhiên mới hướng được sự cúng dường của thí chủ, nếu không tu, như bài kệ: “Hạt gạo của thí chủ, lớn như núi Tu di, nếu không tu giải thoát, mang lông đội sừng trả”. Thí chủ cúng dường là cho mình tu, mỗi người phải tự giác, phải cảnh sách mình.
Tôi đi nhiều chỗ, ít gặp một người Trụ trì nào như thầy Trụ trì ở đây, tất cả đều là phương tiện cho chúng để tu, chỗ ăn chỗ ở, luôn cả phục vụ điểm tâm, cung cấp đầy đủ. Cho nên, đại chúng phải tự hỏi tự xét, để không phụ lòng thầy Trụ trì lo cho mình tu.
Còn tôi thì nóng tánh, tự biết lỗi mà sửa còn chưa được ấy là tập khí từ lâu đời thành ra tôi chẳng dám trách người khác không sửa. Cho nên, mỗi mỗi hãy tự sửa, mới gọi là tu.
Hỏi: Chết rồi, thiêu xong, Phật tánh ở chỗ nào?
Đáp: Phật tánh là tâm, vì tâm có tánh giác ngộ nên gọi Phật tánh. Phật tánh cũng là bản tâm, khắp không gian thời gian nên không có chết. Phật tánh khắp không gian nên chẳng khứ lai, gắn tên gọi Như lai, là đúng như bản lai, chẳng khứ lai thì làm sao có chết rồi đi đâu và ở đâu? Nếu có chỗ thì chẳng phải Phật tánh, vì không cùng khắp vậy. Do người hỏi chấp thật sanh tử nên có câu hỏi này.
Hỏi: Tổ Đạt Ma có Kinh Lăng Già để ấn chứng hậu học, Lục Tổ có Kinh Pháp Bảo Đàn, ngài Lai Quả có Thiền Thất Khai Thị Lục, Nguyệt Khê có Tuyệt Đối Luận, vậy sau này nếu Sư phụ tịch, chúng con sẽ căn cứ vào đâu?
Đáp: Tôi là người chưa kiến tánh. Ngài Lai Quả, ngài Nguyệt Khê là người đã kiến tánh, hồi xưa Tổ kiến tánh đã bảy ngàn vị, nhưng người lưu lại kinh luận rất ít, chứ chẳng phải Tổ nào cũng lưu lại, huống là tôi chưa kiến tánh! Tôi chỉ là người nuốt nước miếng của chư Tổ truyền lại rồi đem dạy lại cho quí vị thôi, chứ tự mình tôi có gì đâu!
Thực tế bản tâm của mọi người là trống rỗng vô sở hữu, Lục Tổ đã nói: “Bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai”. nghĩa là xưa nay đã chẳng một vật thì lấy gì để dính bụi trần! Không có một vật là trống rỗng vô sở hữu, nên gọi Tánh không, tánh không thì chẳng chỗ trụ, nên gọi Vô trụ, ngài Lục Tổ nói “Lấy vô trụ làm gốc, nay nói lưu lại cái gì là có sở trụ rồi. Cũng như Phật Thích Ca, đâu có để lại cái gì, đến sau này đệ tứ kết tập lại mới thành kinh.
Hỏi: Sư phụ có dạy: “Hành giả dụng công tham thiền, giữ nghi tình không hiểu không biết để đưa mình đến kiến tánh thành Phật”. Nhưng cuối cùng Sư phụ lại nói “không có Phật để thành”. Vậy với người đời không dụng công tham thiền, cũng không thành Phật, hai việc này giống nhau chăng?
Đáp: Chưa kiến tánh thành Phật thì nói muốn thành Phật, đến khi kiến tánh rồi mới biết chẳng có Phật để thành, vì đã thành sẵn rồi, nay chưa hiện ra được là bởi kiến lập tri kiến, bị tri kiến che khuất. (Sư phụ đã thí dụ quặng vàng trong Kinh Viên Giác, lược qua). Nên Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn”, nếu chẳng kiến lập tri kiến là Niết bàn. Chẳng kiến lập thì vô thỉ vô sanh, tức không có sự bắt đầu và sanh khởi, nói đi nói lại cũng chỉ có bao nhiêu đó thôi.
Hỏi: Thế nào là tâm, Phật, chúng sanh, tâm vô sai biệt?
Đáp: Tất cả duy tâm tạo, Phật cũng là tâm tạo, chúng sanh cũng là tâm tạo, nên chẳng có sai biệt.
Hỏi: Người xưa nói “Cửa biết là cửa tai họa”, nếu như không biết thì làm sao có thể dịch kinh được?
Đáp: Cái biết là biết của bộ não, có cái không biết để đối đãi còn cái biết của Phật tánh không được gọi là biết, vì không có sự đối đãi, gọi là “vô duyên tri”.
Hỏi: Trong lúc con tham thiền, có một giai đoạn rỗng rang không sanh khởi rồi con tự đề lên câu thoại đầu, đề riết cũng không tìm ra vấn đề gì cũng không nhìn thấy gì?
Đáp: Có tìm đã sai lầm rồi, tham thiền là muốn chấm dứt cái biết, tìm hiểu biết, ghi nhớ biết, tùy duyên biết … đều phải chấm dứt, nay dùng cái tìm hiểu làm công phu thì không đúng. Chỉ là hỏi và nhìn đi song song để giữ cái không biết của nghi tình, chứ chẳng phải đi tìm hiểu, nay chẳng những không chịu chấm dứt, còn đi tìm hiểu là nghịch với tham Tổ sư thiền.
Hỏi: Con cũng không thèm suy nghĩ, chỉ giữ cái ý đó, chuẩn bị khởi lên mà không thèm khởi nữa.
Đáp: Không cho khởi cũng không được, khởi với không khởi đều không biết. Do có biết mới nói là khởi với không khởi, đã không biết thì làm sao biết khởi và không khởi?
Hỏi: Vậy chứ cái nghi tình cứ đưa lên hoài!
Đáp: Chẳng có đưa lên đưa xuống, không biết tới, không kiến lập, không bày đặt gì cả, chỉ là hỏi và nhìn đi song song.
Hỏi: Thế nào là người trí, người ngu? Thế nào là người mê, người ngộ?
Đáp: Chấp thật là ngu, là mê, phá chấp thật là trí, là ngộ, chỉ là vậy thôi.
Hỏi: Sao gọi là pháp của mình?
Đáp: Phật pháp chẳng có của mình hay của ai. Tất cả Phật pháp đều nói về cái tâm, tâm thì trống rỗng vô sở hữu chẳng phải thuộc về ai, nếu nói của ai thì ai cũng có đầy đủ.
Hỏi: Thế nào gọi là phương tiện?
Đáp: Phương tiện là tùy duyên, như pháp Tứ nhiếp của Bồ tát là phương tiện: ấy là bố thí, ái ngữ, đồng sự, lợi hành đều là phương tiện để độ chúng sanh. Về bố thí, ái ngữ, lợi hành thì các tôn giáo khác cũng thực hiện được, duy có pháp đồng sự thì chỉ Phật giáo mới làm được ví như muốn độ con heo phải đầu thai thành con heo, muốn độ người ăn xin phải làm kẻ ăn xin, đó là phương tiện.
Hỏi: Thế nào là phân biệt tất cả pháp, chẳng khởi phân biệt tưởng?
Đáp: Phân biệt tất cả pháp, ví như biết chén này là chén cơm, chén kia là chén nước, phân biệt rõ ràng, nhưng chẳng khởi phân biệt tưởng, chỉ biết cơm là cơm, không phân biệt cơm ngon cơm dở; chỉ biết nước là nước, không phân biệt nước trong nước đục v.v . . .chứ chẳng phải không phân biệt giữa cơm với nước. Tức là: Phân biệt tất cả pháp, nơi đệ nhất nghĩa mà chẳng động, chỉ có thế lưu bố tưởng mà chẳng có trước tưởng.
Hỏi: Sư phụ nói thời gian không có sự bắt đầu thì làm sao có con quỳ nơi đây để hỏi pháp?
Đáp: Ấy là do bệnh chấp, do cảm giác sai lầm. Trong Bát Nhã Tâm Kinh Lược Giải, tôi có thí dụ: Do cái tâm hoạt động thì phải thấy có sanh tử, tâm hoạt động phải thấy căn nhà xoay. Căn nhà xoay là sanh tử luân hồi, căn nhà ngưng xoay là cứu cánh Niết bàn, nhưng căn nhà có xoay hồi nào đâu mà nói căn nhà ngưng xoay! Do là do thân mình cứ xoay mãi thì căn nhà đâu thể ngưng xoay được? Phải thấy căn nhà xoay thôi, khi nào thân mình ngưng xoay rồi mới thấy căn nhà ngưng xoay. Cũng như tâm của thầy đang hoạt động, dùng tâm hoạt động để hỏi tôi thì sanh tử làm sao lìa?
Hỏi: Khi đề câu thoại đầu lên, là chỉ hỏi một cách nhẹ nhàng thôi, hay quyết tâm phải tìm cho ra câu trả lời?
Đáp: Nếu tìm cho ra câu trả lời là sai lầm, là dùng bộ não đi tìm hiểu. Đã muốn chấm dứt sự tìm hiểu còn đi tìm là nghịch với tham Tổ sư thiền, hỏi câu thoại chỉ là kích thích một niệm không hiểu không biết, chỉ nhìn và hỏi chỗ không hiểu không biết mà thôi. Không hiểu không biết thì không có chỗ, nhìn mãi vẫn là không hiểu không biết, cứ giữ mãi cái không hiểu không biết sẽ đưa hành giả đến chỗ kiến tánh thành Phật, rất giản dị.
Hỏi: Tất cả cuộc sống của chúng con đều ớ trong mở mắt chiêm bao. Khi chúng con tham thiền đến thức tỉnh từ mở mắt chiêm bao, có còn chịu ảnh hưởng trong mở mắt chiêm bao không? Ví như những cảnh mừng giận buồn vui chẳng hạn?
Đáp: Nếu người ấy tập khí sạch như Đức Phật thì hông bị ảnh hưởng, nếu người đó tập khí vẫn còn thì phải bị ảnh hưởng, cho nên, Lục Tổ kiến tánh rồi vẫn phải mười lăm năm bảo nhiệm để dứt tập khí, cả tập khí thế gian và xuất thế gian.
Theo Giáo môn giải thích, Bồ tát Thập địa còn tập khí xuất thế gian rất vi tế như chấp thật có sở ngộ, có sở chứng, có Niết bàn, có giải thoát v.v… đến Đẳng giác sạch rồi mới lên Diệu giác, rồi quả vị Phật. Cho nên, Thiền tông muốn dứt sạch tập khí xuất thế gian, nói “Cái hầm sâu giải thoát rất đáng sợ”.
Ai cũng muốn tu giải thoát, tại sao lại sợ giải thoát? Vì hễ chấp vào cái giải thoát đó tức tập khí xuất thế gian chưa sạch, chẳng thể đến quả Phật được. Do đó, ngài Lục Tổ nói “Thiền định giải thoát chẳng phải Phật pháp”, vì có thiền định là có tán loạn, có giải thoát tức có trói buộc, còn tương đối, Niết bàn cũng vậy, Niết bàn là ngộ, hễ chấp có Niết bàn tức còn mê.
Hỏi: Con nghe Sư phụ nói khi kiến tánh chỉ trừ được tập khí thô, còn tập khí vi tế phải cần một thời gian bảo nhiệm mới dứt sạch. Vậy khi hành giả mới kiến tánh rồi chết đi, có ra khỏi sanh tử luân hồi không?
Đáp: Kiến tánh thì ra khỏi sanh tử luân hồi.
Hỏi: Trong Truyền Tâm Pháp Yếu của ngài Hoàng Bá có câu: “Đức Phật còn phải đoạn dứt hai thứ ngu: Một là vi tế sở tri ngu, hai là cực vi tế sở tri ngu”. Vậy hai thứ ngu đó là gì ?
Đáp: Ấy là tập khí xuất thế gian.
Hỏi: Tại sao vô minh là chỗ đắc đạo của chư Phật?
Đáp: Vì có vô minh mới đắc đạo. Vô minh là mê, đắc đạo là ngộ, nếu không có mê làm sao có ngộ? Nên mê là nhân, ngộ là quả, tham sân si tức là giải thoát.
24/06/97 – 28/06/97; 22/07/97 – 28/07/97 tại Chùa Pháp Thành, q. 6
Hỏi: Thế nào là Bát Nhã vô tri? Thế nào là Hòa quang đồng trần?
Đáp: Trí của Bát Nhã tự động, chẳng thể kiến lập tri, vì hễ có tri tức có vô tri để đối đãi. Hòa quang đồng trần nghĩa là tất cả đều bằng nhau, như ánh sáng cây đèn, đèn lớn thì ánh sáng mạnh hơn, đèn nhỏ ánh sáng yếu hơn, nhưng ánh sáng của đèn lớn đèn nhỏ hòa chung thành một ánh sáng, vốn chẳng có khác, dù muôn ngàn cây đèn cũng cùng một ánh sáng, gọi là hòa quang đồng trần. Ví như bụi trần hòa lẫn trong không khí mà chúng ta không thấy, khi ánh sáng chiếu qua khe cửa, sẽ thấy bụi trần lăng xăng.
Hỏi: Nay người ta dùng các loại ngũ tân như hành, tỏi, củ kiệu hương cừ … chế thành thuốc chữa bệnh, khi Phật tử bị bệnh phải dùng những thứ thuốc đó, có được không?
Đáp: Thì cái đó được khai, như uống rượu cũng vậy. Kỳ thật dùng ngũ tân chẳng phải có phạm giới, nhưng vì chướng ngại cho người tu, hễ ăn sống thì kích thích tánh dâm dục, ăn chín thì kích thích tánh sân hận, nên phải tránh dùng.
Hỏi: Tham Thiền Phổ Thuyết nói “Lục căn khó thâu”, còn Lai Quả Thiền sư nói là như trong nhà đốt cây đèn, các tông phái khác dùng búa đóng bít, che đậy các cửa, còn Thiền Tông thì chẳng phải vậy, trước hết đập bể cây đèn, kế đến là triệt hạ căn nhà, vậy nghĩa này như thế nào?
Đáp: Ấy là thí dụ: Trong nhà đốt lên cây đèn, ánh sáng lọt ra ngoài sáu cửa, nay muốn không cho ánh sáng lọt ra ngoài, nên dùng vải che lại, sáu cửa đều che bít, nhưng khi gió thổi thì bị hở, ánh sáng vẫn lọt ra ngoài, còn Thiền Tông thì khỏi cần che bít cửa sổ, chỉ cần tắt cây đèn trong nhà thì chẳng còn ánh sáng lọt ra ngoài.
Ánh sáng thí dụ vọng tưởng của bộ não, Tiểu thừa thì bít hết lục căn để trừ vọng tưởng, còn Thiền Tông trừ hẵn nguồn gốc, dùng nghi tình chấm dứt hết tất cả biết, hoạt động của bộ não hết thì chẳng còn vọng tưởng nổi lên, lục căn vẫn làm việc bình thường.
Hỏi: Thế nào là phước huệ song tu?
Đáp: Bố thí cúng dường là tu phước, tham thiền là tu huệ, nếu hai thứ đều thực hành gọi là phước huệ song tu.
Hỏi: Thế nào là “lục mở nhất tiêu” trong Kinh Lăng Nghiêm?
Đáp: Lục là lục căn, nhất chỉ thân thể, ý nói thân thể dù chỉ có một, nhưng có lục căn, nếu lục căn đã tiêu mà còn chấp thật thân này cũng không thể giải thoát.
Hỏi: Danh từ “Cổ đức” như thế nào?
Đáp: Cổ là người xưa, Đức là cách xưng hô, tức những vị Đại đức hồi thời xưa, chứ không phải chỉ gọi những vị có đạo đức, theo cách xưng hô ở Việt Nam là từ Hòa thượng rồi đến Thượng Tọa, Đại Đức, nhưng theo giới luật nhà Phật, khi thọ giới Bồ tát, tôn xưng Phật Thích Ca là “Đại Đức Thích Ca Mâu ni”, tôn xưng Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Di Lặc cũng là Đại Đức, do đó Dại Đức cũng không phải là bậc nhỏ. Thật ra, muốn làm Hòa thượng, thân giáo sư thì Tỳ kheo thọ giới mười năm có thể rời thầy, tự làm Hòa thượng dạy đệ tử, còn muốn làm Thượng Tọa phải hai mươi năm, nên Thượng Tọa cũng không phải nhỏ hơn Hòa thượng, nay là vì theo người đời đã quen xưng hô như thế.
Hỏi: Thế nào là nghĩa câu “Cái gì có bỏ ra, không có đừng đem vào” của ông Bàng Uẩn?
Đáp: Cũng như hư không trống rỗng vô sở hữu mới dung nạp và ứng dụng, muốn hiển bày tâm mình, thì những gì đã có trong tâm đem bỏ ra hết, những gì không có chớ mang vào, hễ mang vào tức kiến lập sở hữu, là chướng ngại.
Hỏi: Thế nào là trạm nhập hợp trạm?
Đáp: Chữ Trạm nghĩa là nước trong lặng chẳng làn sóng, có thể nhìn thấu tới đáy, khi nào liệng cục đá vào sẽ khiến nổi lên làn sóng. Đó là hình dung ý thức của mình, “Trạm nhập” tức ý thức hoạt động, mặc dầu không có làn sóng, nhưng ôm cái trong lặng đó (ôm sự ngộ của mình) của không được, vẫn còn ở trong mê trí tứ tướng của bậc thánh. Trạm nhập không có hợp với cái gì, nếu có hợp thì chẳng phải vô sở hữu vậy.
Hỏi: Thế nào là nghĩa “Người chỉ cần vô dục, vô y tức là Phật” của Hòa thượng Nham Đầu?
Đáp: Không có một dục vọng nào gọi là vô dục, không có y vào chỗ nào cả gọi là vô y, cũng là nghĩa trống rỗng vô sở hữu của tâm mình. Đầu óc của con người suốt ngày làm việc gì đều muốn thỏa mãn dục vọng của mình, nhất là vấn đề ham tiền, có tiền thì làm gì cũng được, tiền càng nhiều càng tốt. Do đó, Đức Phật cấm tu sĩ không được cầm tiền, mười phương tín thí cúng dường tiền là để cho mình làm Phật sự, tự giác giác tha, đâu phải để mình thỏa mãn dục vọng! Nên phải vô dục và chẳng nương tựa vào chỗ nào cả.
Hỏi: Ngài Vĩnh Gia nói: “Trống rỗng không, chống nhân quả, mênh mênh mông mông chiêu tai họa” là thế nào?
Đáp: Chấp vào cái không, cho là không có nhân quả thì làm ác cũng chẳng sao, là lọt vào biên kiến, dĩ nhiên phải chiêu tai họa.
16/05/97 – 20/05/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc
Hỏi: Chúng con là Tăng sinh ở cần Thơ, muốn xin Hòa thượng giải giùm, cái này là cái gì?
Đáp: Hãy tự hỏi chính mình, chẳng những cái này không biết, tất cả đều không biết, nay chớ hỏi việc ở ngoài thân, ngay sợi tóc của ông, tế bào của ông còn chẳng tự biết, tức những gì trong cơ thể cũng chẳng tự biết, nói chi ở ngoài?
Hỏi: Tại sao không biết?
Đáp: Vì muốn có sở hữu, muốn có cái biết, cho cái biết cũng là sở hữu của mình. Tại có tư tưởng chấp thật, cho nên, cái biết sai lầm cũng muốn biết. Ông là Tăng sinh, nay ông học biết được cái gì? Hãy nói ra thử?
– … Con không biết.
Đáp: Tự mình học mà không biết, còn muốn hỏi cái gì? Bên Thiền Tông, nghi tình là dùng để tự hỏi, nếu hỏi Phật Thích Ca, dù Phật nói được, đối với tự mình có ích lợi gì? Huống là nói không được! Đức Phật rất sợ những người cứ đuổi theo lời nói để chấp thật như ông, nên trong Kinh Kim Cang, Phật nói: “Ai nói ta có thuyết pháp là phỉ báng Phật”, “Vô pháp khả thuyết mới là thuyết pháp”.
Ông là tăng sinh , những cái bổn phận của ông mà chẳng chịu học, chẳng lẽ rồi cũng trả lời thầy giáo rằng “tôi không biết, không biết là học cái gì?”
Hỏi: Vùng con ở rất xa, chỗ đó chẳng có bậc thầy dẫn dắt tu hành, nên một số cư sĩ thỉnh kinh sách về tự học tự tu, cũng có một số Phật tử đã thọ giới Bồ tát nhưng về nhà không giữ được giới, không trì giới, vậy có phạm giới không?
Đáp: Thọ giới rồi không giữ giới là phạm giới, nếu không hành trì, không giữ được thì xả giới. Trong Phật pháp có thể xả giới, ví như thọ bát quan trai, dù có một ngày một đêm, nhưng cũng xả được.
Hỏi: Vậy xả như thế nào?
Đáp: Thọ giới khó, xả giới thì dễ, chỉ là nói với một người nghe biết tiếng nói là được. Nói với người ấy rằng: “Tôi đã lỡ thọ giới Bồ tát nhưng nay không giữ được, nên xả hết những giới mà thôi đã thọ được”, ấy là được.
Hỏi: Có phải nói với người tu sĩ hay người thường?
Đáp: Chỉ là cư sĩ với cư sĩ cũng được. Tức là người thọ ngũ giới nói với cư sĩ đã thọ ngũ giới, người thọ Bồ tát giới thì nói với người đã thọ Bồ tát giới, cư sĩ cũng được, khỏi cần thầy, còn khi truyền giới thì phải do thầy truyền mới được, sám hối cũng vậy, chẳng thể hối trước bàn thờ Phật vì không ai chứng minh cho.
Hỏi: Xin Sư phụ nói về sự truyền thừa của Tổ Sư Thiền như thế nào?
Đáp: Ngài Lục Tổ là Tổ thứ sáu ở Trung Quốc, nếu tính từ Sơ tổ Ca Diếp thì ngài là Tổ thứ ba mươi ba. Mỗi đời chẳng phải chỉ có một người kiến tánh, nhưng chỉ chọn một vị làm Tổ để tiêu biểu cho người đời sau.
Dưới Lục Tổ có bốn mươi ba vị kiến tánh mà không một người làm Tổ, chỉ được ấn chứng đã kiến tánh mà thôi. Đến sau này thì chưa kiến tánh cũng nối pháp, ví như thời gần đây có ba vị kiến tánh là ngài Lai Quả, ngài Hư Vân, và ngài Nguyệt Khê; ngài Lai Quả kiến tánh nhưng thầy của ngài khi truyền pháp cho ngài là chưa kiến tánh, ngài Hư Vân cũng vậy.
Thời xưa, khi người đệ tử kiến tánh rồi mới gửi thơ báo cho thầy rằng “Con được thầy khai thị khiến ngộ nay xin nối pháp của thầy”. Có khi thư gởi đến nơi thì thầy đã tịch rồi, có khi mười mấy năm sau thư mới đến, thầy cũng quên đi có người đệ tử đó.
Đệ tử sau khi kiến tánh ra hoằng pháp, đốt nén hương đầu tiên tuyên bố rằng “Tôi nói pháp của thầy nào đó”, lúc chưa tuyên bố thì không biết vị đó là nối pháp của ai.
Thời nay là đệ tử chưa kiến tánh thầy cũng truyền pháp, ví như tôi là đời thứ 89, truyền xuống đời thứ 90. Mặc dầu chưa kiến tánh, nhưng có tham thiền cũng còn khá, truyền mãi đến người không có tham thiền, người niệm Phật cũng truyền, vậy cũng được, cũng là có sự tu, nay nhiều người tu Tịnh Độ cũng nối pháp Thiền Tông. Nhưng, tồi tệ hơn là người Thiền cũng không tu, Tịnh cũng không tu, chẳng tu gì hết, chỉ là đi ứng phó kinh sám cũng được truyền thừa, ghi đầy đủ trong pháp quyển, cho nên, truyền mãi là không có giá trị gì cả.
Hỏi: Thế nào là tự tứ?
Đáp: Tự tứ là giải hạ tự tứ. Theo giới luật của Phật, tất cả Tỳ kheo đều phải nhập hạ, đến ngày 14, 15, 16 của tháng bảy là giải hạ, tự tứ là tự kiểm thảo, tất cả chúng đều phải tuần tự ra quỳ trước mặt đại chúng hỏi về kiến, văn, nghi: Kiến là mắt thấy, văn là tai nghe, nghi là không thấy không nghe nhưng có nghi. Ví như hỏi: Tôi chẳng biết tự mình có phạm giới hay không, nên nhờ đại chúng hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc nghi ngờ tôi có phạm giới thì xin cử tội ra để giúp đỡ cho tôi sám”, gọi là tự tứ.
Hỏi: Con thì ăn chay, ở chung với ông bà nội, hằng ngày bà nội đi chợ mua thịt cá về, bảo con nấu nướng, vậy con có mang tội không?
Đáp: Cấp trên có quyền, mình là cấp dưới, nghe lệnh phải làm theo, tức chẳng có tâm tạo thì không có tội, không tạo nhân thì không phải chịu quả, mà người ra lệnh phải chịu nhân quả đó. Còn hễ trong tâm mình cũng khởi niệm thích như vậy hoặc muốn ăn như vậy thì phải cùng chịu cái quả.
Hỏi: Vậy con muốn trốn ông bà đi tu, có được không?
Đáp: Sụ tích của Phật Thích Ca ai cũng biết, ngài cũng trốn hỏi hoàng cung để đi tu. Nhưng hễ đi tu phải tu cho thành, cũng như Đức Phật vậy, tức là phải tu chơn thật, dù không thành công cũng phải chơn tu, nếu không thì mắc nợ thí chủ. Nên nhớ rằng:
Thí chủ một hạt gạo,
Lớn như núi Tu di.
Nếu không tu giải thoát,
Mang lông đội sừng trả.
Do đó, tôi thường khuyên là nếu chơn tu, tại gia cũng được, không cần xuất gia, nhất là người nữ.
Hỏi: Ở nhà khó tu lắm, thưa Sư phụ?
Đáp: Nếu tu Tổ Sư Thiền thì không phải là khó, chỗ nào cũng tu được.
Hỏi: Khi xưa trên hội Linh Sơn, đức Thế Tôn niêm hoa thị chúng, cả hội ngơ ngác, chỉ có Tôn giả Ma Ha Ca Diếp mỉm cười tỏ ngộ, được đức Thế Tôn truyền tâm pháp và nói: “Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, nay phó chúc cho Tôn giả Ca Diếp”.
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn có vị dịch rằng: “Con mắt là cửa của âm dương, là chỗ thần dạo chơi, phải thâu thần nơi con mắt, khiến trở về tâm khiếu, con mắt xem chỗ khiếu ấy chẳng rời, ấy là chỗ chánh pháp nhãn tạng, khế hợp với Niết bàn diệu tâm”, vây có đúng không?
Đáp: Đó là lời của tà ma ác đạo, vì chẳng hiểu Phật pháp. Đã nói Thật tướng vô tướng thì làm gì có những thứ đó?
Hỏi: Ngài Hư vân có nói: “Pháp tu phản văn văn tự tánh” của Bồ tát Quán Thế Âm tức là thoại đầu, vậy hai pháp Phản văn văn tự tánh và tham Tổ Sư Thiền có giống nhau không? Nếu đồng thì đồng ở chỗ nào? Nếu khác thì khác ở chỗ nào?
Đáp: Tổ Sư Thiền là muốn hiển hiện toàn vẹn của tự tánh, tự tánh bất nhị, chẳng nhân duyên đối đãi, Kinh Lăng Nghiêm nói phản văn văn tự tánh: Văn là nghe, trở lại nghe tự tánh, chẳng nghe âm thanh; chẳng những không nghe động, cũng không nghe tịnh, vì động tịnh là pháp sanh diệt, còn tự tánh là pháp bất sanh bất diệt. Nay không nghe âm thanh sanh diệt động tịnh, tức chiếu cố thoại đầu.
Chiếu là chiếu soi, cố là nhìn, nhìn chỗ không biết gì hết, vì không có tướng, trống rỗng vô sở hữu nên chẳng đối đãi, tức là tự tánh bất nhị. Phản văn văn tự tánh cũng như mình nhìn chỗ thoại đầu không biết đó, ý vốn không khác.
Chiếu cố thoại đầu là dùng tánh thấy, phản văn là dùng tánh nghe, cũng là một thứ. Khi sắc thân này chết, đem đi thiêu thành tro, chôn thành đất, còn tánh thấy, tánh ngửi, tánh nếm tồn tại vĩnh viễn chẳng có chết mất, vấn đề này có giảng trong Kinh Lăng Nghiêm.
Hỏi: Thuở Phật còn tại thế, Ngài A Nan bị nàng Ma Đăng Già dùng ma thuật nhiếp vào nhà dâm, sao phải nhờ Đức Phật sai Văn Thù Sư Lợi đem thần chú Lăng Nghiêm đến mới giải cứu cho A Nan được?
Đáp: Do A Ngài và Ma Đăng Già kiếp trước đã có nghiệp duyên, chẳng tự giải thoát được, nên Đức Phật phải sai Bồ tát Văn Thù đem thần chú đến cứu, và nhân dịp độ luôn cho Ma Đăng Già. Sau đó Ma Đăng Già trở thành Tỳ kheo ni và được chứng quả A na hàm, ấy cũng là nhân duyên.
Hỏi: Những vị Tổ đã ra đi thường để lại xá lợi, còn những vị Tổ thời gần dây như ngài Nguyệt Khê, sao để lại kim thân bất hoại làm gì?
Đáp: Nguyện lực của mỗi người mỗi người mỗi khác, như ngài Lục Tổ, Hám Sơn, Đơn Điền cũng để lại nhục thân, ngài Nguyệt Khê cũng vậy. Theo nghi lễ của Phật Giáo, các vị Tổ khi tịch thường là hỏa táng, vị nào có sự tu chứng thì để lại xá lợi, vị nào chẳng tu chứng thì không. Nhưng có xá lợi chẳng thể minh chứng cho sự kiến tánh, kiến tánh mới cần thiết, còn việc có xá lợi chưa chắc đã giải thoát, có khi còn ở trong sinh tử luân hồi.
Hỏi: Người tu theo đạo công giáo khi chết là trở về với Chúa, theo Tịnh Độ thì vãng sanh cõi Cực Lạc, còn hành giả tham Tổ Sư Thiền thì nếu chưa kiến tánh, vãng sanh về đâu?
Đáp: Tại Thầy chưa tin tự tâm, tự tâm vốn chẳng sanh diệt, người khi kiến tánh mới biết vốn không có sanh tử, không sinh tử thì có đi về đâu?
Do bản tâm này khắp không gian chẳng khứ lai nên gọi Như Lai, khắp không gian nên chẳng chỗ nào không biết, nếu mắc đi về đâu, ấy là có chỗ, chỗ này biết thì chỗ khác không biết, có đi về đâu là không cùng khắp, nếu cần đi về đâu thì không được gọi là Như Lai.
Còn khắp thời gian thì chẳng gián đoạn, gọi là Niết bàn, ví như những người tu đạo Thiên Chúa, mặc dầu được sanh cõi Trời, nhưng hễ ngủ mê là không biết, chết giấc cũng không biết, chết rồi vẫn không biết. Người kiến tánh thì khác, ngủ mê vẫn biết, chết giấc, chết rồi vẫn biết; vì kiến tánh rồi thì biết không có sự chết, nói sinh tử chỉ là cảm giác sai lầm mà thôi. (Sư phụ đã ví dụ do thân xoay thấy căn nhà xoay, lược qua).
Hỏi: Làm thế nào khi ngủ vẫn tham thiền được để đi đến thoại đầu?
Đáp: Phải tập dần, tức hỏi và nhìn câu thoại đi song song hoài, sẽ có ngày đến thoại đầu. Tôi nêu thí dụ: Hễ mỗi ngày tăng được một phút thì bốn năm đến thoại đầu, mỗi ngày tăng nửa phút thì tám năm, tăng ¼ phút thì mười sáu năm, tăng ít hơn nữa thì ba mươi hai năm đến thoại đầu.
Hỏi: Có một vị xuất gia cùng con, vị này ở trong chúng hay nổi sân, làm việc chúng cũng sân, lại hay phiền não. Đã là người xuất gia mà không bỏ được những tập khí đó thì phải làm sao? Xin Sư phụ từ bi khai thị.
Đáp: Do không tin pháp môn, cũng không tin tự tâm, chẳng thực hành cho đúng thì đâu thể sửa lại tạp khí phiền não từ lâu đời!
Hỏi: Thế nào là nhiễm, thế nào là chẳng nhiễm?
Đáp: Có sở trụ là nhiễm, không trụ tức chẳng nhiễm.
Hỏi: Phật mẫu là ai?
Đáp: Đó là do những người mê tín không biết Phật pháp, ví như gọi Bồ tát Quán Thế Âm là Phật mẫu. Bồ tát Quán Thế Âm đâu phải đàn bà! Đó chỉ là một trong thiên bá ức hóa thân hóa độ chúng sinh, như trong Phẩm Phổ Môn của Kinh Pháp Hoa đã nói. Chúng ta dù là phàm phu cũng có tam thân, cũng có thần lực đó, chỉ tại không thể sử dụng được thôi.
Hỏi: Trong Mộng Du Tập của ngài Hám Sơn, có vị Cổ đức nói “Ngộ pháp vô sanh thấy sát na” là thế nào? Đã ngộ vô sanh thì có sát na nào có thể thấy? Nếu thấy có sát na tức chẳng phải ngộ vô sanh, sao lại nói “Ngộ vô sanh mới thấy sát na?”Thế thì vô sanh với sát na là một hay khác?
Đáp: Vì phương tiện muốn cho phàm phu hiểu được một phần nào, nên mới kiến lập sát na, ấy là do thế gian đã kiến lập cái sát na rồi nên sát na là do kiến lập mới có. Tôi đã nói, Phật pháp chẳng thể kiến lập, luôn cả hư không cũng vậy, huống là sát na!
Kiến lập thì chẳng phải thực tế, Đức Phật vì sợ chúng sinh chấp vào cái kiến lập đó, nên kiến lập rồi lại phủ định, do đó Phật pháp có lập và phá: Ví như đối với hạ căn thì chỉ có lập không có phá, đối với trung căn là lập rồi phá, đối với thượng căn thì chẳng lập cũng chẳng phá, vì có gì để lập đâu!
Hỏi: Lọt vào hư không mỗi lần dài hơn một chút có phải tiểu tử không?
Đáp: Không phải, tôi nói “lọt vào hư không” chỉ là phương tiện để thí dụ cho biết, nay chúng ta cũng đang ở trong hư không, làm sao có lọt vào đâu nữa? Hư không này tức là tâm của mình, bây giờ cũng đang dùng, ấy là thực tế, mục đích để tăng cường lòng tin cho hành giả tham thiền, ngoài ra chẳng phải có đạo lý cao siêu.
Hỏi: Con muốn xin Sư phụ kể lại quá trình tu tiến công phu từ lúc bắt đầu khởi công tham Tổ sư thiền, cho đến tối ngộ ?
Đáp: Mọi người hãy tự lo công phu của mình, chứ đừng lo cho người khác. Quá trình của quá khứ chư Phật chư Tổ mỗi mỗi đều khác biệt, các vị đồng tham cũng vậy, việc đó vô ích mà còn có chướng ngại. Cho nên, hãy tự lo tu đi. Cứ tự tham cho miên mật, đến chứng ngộ là thự biết, chứ dùng bộ não đi tìm hiểu la sai lầm. Lời nói của Phật còn không cho người ta bắt chước, huống là người chưa kiến tánh!
Ví như Phẩm thí dụ Thọ Lượng của Như Lai với tám tướng thành Phật ở cõi Ta Bà này khác xa lấm, ấy là chuyện do Phật kể còn không phải thực tế mà ? Nay ông muốn tìm cái không phải thực tế để làm gì? Chỉ cần hỏi và nhìn câu thoại đầu thì sẽ đi đến chỗ thực tế, nếu dùng bộ não đi tìm hiểu, chỉ càng tìm càng xa thôi.
Hỏi: Ý con chỉ muốn Sư phụ dẫn dắt chúng con đi đến
chỗ thoại đầu mà thôi.
Đáp: Tôi đã chỉ ra đường lối do chư Tổ truyền lại cho mọi người tu; do đó không cho đi theo lối tẻ, không cho đi bậy. Như ông hiện nay hỏi là theo lối tẻ, không đúng với đường lối. Đường lối tham Tổ sư thiền là giữ nghi tình không hiểu không biết, là chấm dứt tất cả tìm hiểu biết, ghi nhớ biết, suy nghĩ biết, nay đi tìm hiểu những cái không thực tế là chướng ngại sự tham thiền, đã là nghịch rồi, tìm hiểu sự tích của Phật Thích Ca cũng còn không được, ví như nói về ngày Phật đản sanh chẳng hạn.
Hỏi: Lục Tổ nói trong Kinh Pháp Bảo Đàn về “Hàng phục tâm,an trụ tâm, nhưng tâm thì vô sở trụ, trụ nơi vô sở trụ mới gọi là chọn trụ” là thế nào?
Đáp: Vấn đề An trụ tâm, hàng phục tâm trong Kinh Kim Cang, những người có tư tưởng chấp thật thì giải thích theo chủ quan của mình mà chẳng biết ý của Phật nói câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, vì vọng tâm của mình luôn lăng xăng, nay thực hành tham Tổ sư thiền, hỏi và nhìn đi song song đã là hàng phục tâm rồi.
An trụ tâm cũng vậy, hễ giữ được nghi tình thì tâm luôn an trụ, chẳng bị ngoại cảnh lôi kéo, tốt đẹp thế nào cũng không biết, xấu cách mấy cũng không biết, ấy là hàng phục tâm, an trụ tâm rồi, nếu đùng lời nói để giải thích theo cách chủ quan là sai, không đúng với thực tế.
Hỏi: Hành giả tham Tổ sư thiền đối với những ngày giỗ Tổ, phải thờ cúng ông bà cha mẹ như thế nào?
Đáp: Không có cúng kiến thế nào, nếu tự mình không muốn cúng thì chẳng cúng gì cả, còn muốn theo thế tục cúng thì cứ cúng, cũng chẳng có chướng ngại. Tức là: Chỉ cần hỏi và nhìn đi song song, ngoài ra không biết tới; nếu có bà con thân thuộc bắt buộc mình phải cúng thì cúng cũng được.
Vì bản tâm là Phật, nay tu hành là muốn phát hiện bản tâm của mình để kiến tánh thành Phật, còn mục đích cúng kiến là gì? Hễ muốn phù hộ thì không cần phù hộ, cũng chẳng thể phù hộ, còn cúng ký niệm thì cũng được, tất cả đều tùy duyên, chứ chẳng phải nhất định phải cúng hay không cúng, nhất định cần hay không cần.
Hỏi: Thế nào là chánh pháp nhãn tạng?
Đáp: Tổ sư thiền này là chánh pháp nhãn tạng. Khi đức Phật truyền pháp cho Sơ tổ Ma Ha Ca Diếp, Ngài có nói: “Nay đem chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm truyền cho Ca Diếp”, vậy là rõ rồi.
Hỏi: Khi tham thoại đầu phải có câu hỏi mới sanh được nghi tình, như vậy hành giả luôn an trú trong cái nghi, nhưng dần dần do cái nghi không giải quyết được nên sự tham trở thành niệm rồi?
Đáp: Không phải, trong câu tham phải có cái nghi, không hiểu không biết mới thành nghi, nếu chỉ có hỏi có thể biến thành niệm, nếu vừa hỏi vừa nhìn thì không biến thành niệm.
Hỏi: Hành giả tham thiền làm sao biết mình là tiểu ngộ đại ngộ?
Đáp: Hễ ngộ rồi còn ôm cảnh giới ngộ, tức cho là mình đã ngộ thì gọi là tiểu ngộ, hễ ngộ rồi luôn cả cảnh giới ngộ cũng không mới là đại ngộ. Vì ngộ là đối với mê, nếu ngộ triệt để thì hết mê, mê đã hết, ngộ cũng không còn cho nên mê ngộ đều sạch.
14/06/97 – 20/06/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc
Hỏi: Tại sao nói pháp tham Tổ Sư Thiền là pháp xuất gian?
Đáp: Đối với thế gian thì nói xuất thế gian, sự thật thì pháp thế gian và xuất thế gian chẳng khác. Do người ta có bệnh chấp sai lầm về thế gian, muốn ra khỏi sai lầm đó mới nói là xuất, chứ thế gian và xuất thế gian không khác. Tại sao? Vì tâm chẳng có khác, người thế gian cũng là cái tâm này, người nói tu xuất thế gian cũng là cái tâm này. (Sư phụ đã giải thích tâm như hư không trống rỗng vô sở hữu, lược qua.)
Hỏi: Thế nào là hỏa Tam muội, tánh Tam muội? Và cách ngồi kiết già do Phật Thích Ca hay Thiền sư nào đặt ra?
Đáp: Tất cả đều do người ta đặt ra tên gọi, chứ Phật Thích Ca đã nói vô thỉ vô sanh, vô sanh thì chẳng thể đặt ra, hễ đặt ra là có sự bắt đầu rồi. Người ta đặt ra thiền quán, quán lửa thì gọi là hỏa tam muội, quán thủy thì gọi là thủy tam muội … ấy là do người bày đặt. Còn Tổ sư thiền là chẳng có gì cả, chỉ do Tổ sư từng đời truyền xuống, miễn cưỡng gọi là Tổ sư thiền, chứ không có tên gọi, luôn cả thiền cũng không, vì trống rỗng vô sở hữu, chẳng thể kiến lập.
Lời tác bạch của thầy Trụ trì chùa Tam Bảo:
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch Sư phụ: Con cúi đầu đánh lễ Sư phụ, khi con được gặp ngài, con quyết lòng tin pháp môn đây là của Đức Thích Ca truyền dạy, Sư phụ dạy lại. Từ đó đến nay mười mấy năm, con quyết chí công quả cho Tam bảo để thành tựu cho tất cả chúng sanh, như Sư phụ dạy nam là cha, nữ là mẹ của mình. Con nguyện đời nào trơ về cõi Ta Bà này cũng theo Sư phụ để đền ơn cho Phật và Sư phụ, và tất cả đều thành Phật.
Hôm nay mọi người về đây cùng nhau tu hành, thương nhau như con một cha, nhà một nóc, chúng con thực mừng vui, nguyện đem hết tấm lòng để phục vụ. Nay con cúi đầu lạy hết tất cả chúng Tăng Ni, Phật tử, như lời Sư phụ dạy, con không dám kể lể, chỉ công quả phục vụ đến ngày cuối cùng mà thôi.
Mà chẳng biết là do con ham công quả cho đại chúng thành Phật, hoặc do con lo hoài nên chẳng biết con có tu hay không, thành ra công phu con cũng ít, lâu lâu nhớ, lâu lâu quên, mà ham làm lắm, làm đến chết cũng được. Cho nên, hễ có điều chi sai sót, xin Sư phụ thông cảm.
Đáp: Bây giờ mình có tu thì tự nhiên mới hướng được sự cúng dường của thí chủ, nếu không tu, như bài kệ: “Hạt gạo của thí chủ, lớn như núi Tu di, nếu không tu giải thoát, mang lông đội sừng trả”. Thí chủ cúng dường là cho mình tu, mỗi người phải tự giác, phải cảnh sách mình.
Tôi đi nhiều chỗ, ít gặp một người Trụ trì nào như thầy Trụ trì ở đây, tất cả đều là phương tiện cho chúng để tu, chỗ ăn chỗ ở, luôn cả phục vụ điểm tâm, cung cấp đầy đủ. Cho nên, đại chúng phải tự hỏi tự xét, để không phụ lòng thầy Trụ trì lo cho mình tu.
Còn tôi thì nóng tánh, tự biết lỗi mà sửa còn chưa được ấy là tập khí từ lâu đời thành ra tôi chẳng dám trách người khác không sửa. Cho nên, mỗi mỗi hãy tự sửa, mới gọi là tu.
Hỏi: Chết rồi, thiêu xong, Phật tánh ở chỗ nào?
Đáp: Phật tánh là tâm, vì tâm có tánh giác ngộ nên gọi Phật tánh. Phật tánh cũng là bản tâm, khắp không gian thời gian nên không có chết. Phật tánh khắp không gian nên chẳng khứ lai, gắn tên gọi Như lai, là đúng như bản lai, chẳng khứ lai thì làm sao có chết rồi đi đâu và ở đâu? Nếu có chỗ thì chẳng phải Phật tánh, vì không cùng khắp vậy. Do người hỏi chấp thật sanh tử nên có câu hỏi này.
Hỏi: Tổ Đạt Ma có Kinh Lăng Già để ấn chứng hậu học, Lục Tổ có Kinh Pháp Bảo Đàn, ngài Lai Quả có Thiền Thất Khai Thị Lục, Nguyệt Khê có Tuyệt Đối Luận, vậy sau này nếu Sư phụ tịch, chúng con sẽ căn cứ vào đâu?
Đáp: Tôi là người chưa kiến tánh. Ngài Lai Quả, ngài Nguyệt Khê là người đã kiến tánh, hồi xưa Tổ kiến tánh đã bảy ngàn vị, nhưng người lưu lại kinh luận rất ít, chứ chẳng phải Tổ nào cũng lưu lại, huống là tôi chưa kiến tánh! Tôi chỉ là người nuốt nước miếng của chư Tổ truyền lại rồi đem dạy lại cho quí vị thôi, chứ tự mình tôi có gì đâu!
Thực tế bản tâm của mọi người là trống rỗng vô sở hữu, Lục Tổ đã nói: “Bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai”. nghĩa là xưa nay đã chẳng một vật thì lấy gì để dính bụi trần! Không có một vật là trống rỗng vô sở hữu, nên gọi Tánh không, tánh không thì chẳng chỗ trụ, nên gọi Vô trụ, ngài Lục Tổ nói “Lấy vô trụ làm gốc, nay nói lưu lại cái gì là có sở trụ rồi. Cũng như Phật Thích Ca, đâu có để lại cái gì, đến sau này đệ tứ kết tập lại mới thành kinh.
Hỏi: Sư phụ có dạy: “Hành giả dụng công tham thiền, giữ nghi tình không hiểu không biết để đưa mình đến kiến tánh thành Phật”. Nhưng cuối cùng Sư phụ lại nói “không có Phật để thành”. Vậy với người đời không dụng công tham thiền, cũng không thành Phật, hai việc này giống nhau chăng?
Đáp: Chưa kiến tánh thành Phật thì nói muốn thành Phật, đến khi kiến tánh rồi mới biết chẳng có Phật để thành, vì đã thành sẵn rồi, nay chưa hiện ra được là bởi kiến lập tri kiến, bị tri kiến che khuất. (Sư phụ đã thí dụ quặng vàng trong Kinh Viên Giác, lược qua). Nên Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn”, nếu chẳng kiến lập tri kiến là Niết bàn. Chẳng kiến lập thì vô thỉ vô sanh, tức không có sự bắt đầu và sanh khởi, nói đi nói lại cũng chỉ có bao nhiêu đó thôi.
Hỏi: Thế nào là tâm, Phật, chúng sanh, tâm vô sai biệt?
Đáp: Tất cả duy tâm tạo, Phật cũng là tâm tạo, chúng sanh cũng là tâm tạo, nên chẳng có sai biệt.
Hỏi: Người xưa nói “Cửa biết là cửa tai họa”, nếu như không biết thì làm sao có thể dịch kinh được?
Đáp: Cái biết là biết của bộ não, có cái không biết để đối đãi còn cái biết của Phật tánh không được gọi là biết, vì không có sự đối đãi, gọi là “vô duyên tri”.
Hỏi: Trong lúc con tham thiền, có một giai đoạn rỗng rang không sanh khởi rồi con tự đề lên câu thoại đầu, đề riết cũng không tìm ra vấn đề gì cũng không nhìn thấy gì?
Đáp: Có tìm đã sai lầm rồi, tham thiền là muốn chấm dứt cái biết, tìm hiểu biết, ghi nhớ biết, tùy duyên biết … đều phải chấm dứt, nay dùng cái tìm hiểu làm công phu thì không đúng. Chỉ là hỏi và nhìn đi song song để giữ cái không biết của nghi tình, chứ chẳng phải đi tìm hiểu, nay chẳng những không chịu chấm dứt, còn đi tìm hiểu là nghịch với tham Tổ sư thiền.
Hỏi: Con cũng không thèm suy nghĩ, chỉ giữ cái ý đó, chuẩn bị khởi lên mà không thèm khởi nữa.
Đáp: Không cho khởi cũng không được, khởi với không khởi đều không biết. Do có biết mới nói là khởi với không khởi, đã không biết thì làm sao biết khởi và không khởi?
Hỏi: Vậy chứ cái nghi tình cứ đưa lên hoài!
Đáp: Chẳng có đưa lên đưa xuống, không biết tới, không kiến lập, không bày đặt gì cả, chỉ là hỏi và nhìn đi song song.
Hỏi: Thế nào là người trí, người ngu? Thế nào là người mê, người ngộ?
Đáp: Chấp thật là ngu, là mê, phá chấp thật là trí, là ngộ, chỉ là vậy thôi.
Hỏi: Sao gọi là pháp của mình?
Đáp: Phật pháp chẳng có của mình hay của ai. Tất cả Phật pháp đều nói về cái tâm, tâm thì trống rỗng vô sở hữu chẳng phải thuộc về ai, nếu nói của ai thì ai cũng có đầy đủ.
Hỏi: Thế nào gọi là phương tiện?
Đáp: Phương tiện là tùy duyên, như pháp Tứ nhiếp của Bồ tát là phương tiện: ấy là bố thí, ái ngữ, đồng sự, lợi hành đều là phương tiện để độ chúng sanh. Về bố thí, ái ngữ, lợi hành thì các tôn giáo khác cũng thực hiện được, duy có pháp đồng sự thì chỉ Phật giáo mới làm
được ví như muốn độ con heo phải đầu thai thành con heo, muốn độ người ăn xin phải làm kẻ ăn xin, đó là phương tiện.
Hỏi: Thế nào là phân biệt tất cả pháp, chẳng khởi phân biệt tưởng?
Đáp: Phân biệt tất cả pháp, ví như biết chén này là chén cơm, chén kia là chén nước, phân biệt rõ ràng, nhưng chẳng khởi phân biệt tưởng, chỉ biết cơm là cơm, không phân biệt cơm ngon cơm dở; chỉ biết nước là nước, không phân biệt nước trong nước đục v.v . . .chứ chẳng phải không phân biệt giữa cơm với nước. Tức là: Phân biệt tất cả pháp, nơi đệ nhất nghĩa mà chẳng động, chỉ có thế lưu bố tưởng mà chẳng có trước tưởng.
Hỏi: Sư phụ nói thời gian không có sự bắt đầu thì làm sao có con quỳ nơi đây để hỏi pháp?
Đáp: Ấy là do bệnh chấp, do cảm giác sai lầm. Trong Bát Nhã Tâm Kinh Lược Giải, tôi có thí dụ: Do cái tâm hoạt động thì phải thấy có sanh tử, tâm hoạt động phải thấy căn nhà xoay. Căn nhà xoay là sanh tử luân hồi, căn nhà ngưng xoay là cứu cánh Niết bàn, nhưng căn nhà có xoay hồi nào đâu mà nói căn nhà ngưng xoay! Do là do thân mình cứ xoay mãi thì căn nhà đâu thể ngưng xoay được? Phải thấy căn nhà xoay thôi, khi nào thân mình ngưng xoay rồi mới thấy căn nhà ngưng xoay. Cũng như tâm của thầy đang hoạt động, dùng tâm hoạt động để hỏi tôi thì sanh tử làm sao lìa?
Hỏi: Khi đề câu thoại đầu lên, là chỉ hỏi một cách nhẹ nhàng thôi, hay quyết tâm phải tìm cho ra câu trả lời?
Đáp: Nếu tìm cho ra câu trả lời là sai lầm, là dùng bộ não đi tìm hiểu. Đã muốn chấm dứt sự tìm hiểu còn đi tìm là nghịch với tham Tổ sư thiền, hỏi câu thoại chỉ là kích thích một niệm không hiểu không biết, chỉ nhìn và hỏi chỗ không hiểu không biết mà thôi. Không hiểu không biết thì không có chỗ, nhìn mãi vẫn là không hiểu không biết, cứ giữ mãi cái không hiểu không biết sẽ đưa hành giả đến chỗ kiến tánh thành Phật, rất giản dị.
Hỏi: Tất cả cuộc sống của chúng con đều ớ trong mở mắt chiêm bao. Khi chúng con tham thiền đến thức tỉnh từ mở mắt chiêm bao, có còn chịu ảnh hưởng trong mở mắt chiêm bao không? Ví như những cảnh mừng giận buồn vui chẳng hạn?
Đáp: Nếu người ấy tập khí sạch như Đức Phật thì hông bị ảnh hưởng, nếu người đó tập khí vẫn còn thì phải bị ảnh hưởng, cho nên, Lục Tổ kiến tánh rồi vẫn phải mười lăm năm bảo nhiệm để dứt tập khí, cả tập khí thế gian và xuất thế gian.
Theo Giáo môn giải thích, Bồ tát Thập địa còn tập khí xuất thế gian rất vi tế như chấp thật có sở ngộ, có sở chứng, có Niết bàn, có giải thoát v.v… đến Đẳng giác sạch rồi mới lên Diệu giác, rồi quả vị Phật. Cho nên, Thiền tông muốn dứt sạch tập khí xuất thế gian, nói “Cái hầm sâu giải thoát rất đáng sợ”.
Ai cũng muốn tu giải thoát, tại sao lại sợ giải thoát? Vì hễ chấp vào cái giải thoát đó tức tập khí xuất thế gian chưa sạch, chẳng thể đến quả Phật được. Do đó, ngài Lục Tổ nói “Thiền định giải thoát chẳng phải Phật pháp”, vì có thiền định là có tán loạn, có giải thoát tức có trói buộc, còn tương đối, Niết bàn cũng vậy, Niết bàn là ngộ, hễ chấp có Niết bàn tức còn mê.
Hỏi: Con nghe Sư phụ nói khi kiến tánh chỉ trừ được tập khí thô, còn tập khí vi tế phải cần một thời gian bảo nhiệm mới dứt sạch. Vậy khi hành giả mới kiến tánh rồi chết đi, có ra khỏi sanh tử luân hồi không?
Đáp: Kiến tánh thì ra khỏi sanh tử luân hồi.
Hỏi: Trong Truyền Tâm Pháp Yếu của ngài Hoàng Bá có câu: “Đức Phật còn phải đoạn dứt hai thứ ngu: Một là vi tế sở tri ngu, hai là cực vi tế sở tri ngu”. Vậy hai thứ ngu đó là gì ?
Đáp: Ấy là tập khí xuất thế gian.
Hỏi: Tại sao vô minh là chỗ đắc đạo của chư Phật?
Đáp: Vì có vô minh mới đắc đạo. Vô minh là mê, đắc đạo là ngộ, nếu không có mê làm sao có ngộ? Nên mê là nhân, ngộ là quả, tham sân si tức là giải thoát.
14/07/1997 – 20/07/1997 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc
Hỏi: Thần thông trí huệ của mọi người đồng như Phật, vậy đến khi nào mới hiện ra như Phật được?
Đáp: Chừng nào tất cả sở hữu đều không còn nữa sẽ hiện ra đồng như Phật.
Hỏi: Thế nào là cội nguồn chân thật của Tự tánh?
Đáp: Chỗ trống rỗng vô sở hữu đó tức là tâm của ông, là nguồn gốc chân thật, gọi là Tự tánh, cũng gọi Phật tánh, trí Bát nhã, Vô duyên tri, Chánh biến tri, cũng gọi Bồ đề, Niết bàn, giải thoát, vô trụ. Vì trống rỗng không có chỗ để trụ, nên gọi vô trụ; vì chẳng trói buộc nên gọi giải thoát.
Hỏi: Thế nào là lễ tự tứ?
Đáp: Tự là tự mình, tứ là kiểm thảo. Giải hạ tự tứ là mỗi người tự kiểm thảo trong ba tháng hạ có phạm giới không? Có khi tự mình không biết, phải hỏi tất cả chúng có thấy mình phạm giới không? Hoặc có ai nghe, hoặc nghi ngờ mình phạm giới không? Xin ra cử tội, gọi là kiến, văn, nghi. Nếu người biết mà che giấu không ra cử tội, sau này phát giác, tội che giấu đó đồng như người phạm: Ví như người đó phạm tội Ba-la-di là chín triệu năm, người che giấu cũng bằng tội Ba-la-di chín triệu năm. Cho nên, sống chung trong chúng không dễ phạm tội, vì giám sát lẫn nhau.
Hỏi: Chúng con đến Thiền đường tham thiền, ai cũng muốn kiến tánh thành Phật, tại sao không cho có tâm chờ ngộ?
Đáp: Có đi sẽ đến. không đi không đến, đi nhanh đến nhanh, đi chậm đến chậm, cũng như muốn đi Thành phố Hồ Chí Minh, bất kể đi xe, đi tàu, đi bộ … hễ đi thì sẽ đến, không cần chờ đợi cũng đến. Nếu chỉ suốt ngày nói tôi muốn đi Thành phố …” nói mãi mà chẳng đi thì làm sao đến! Lại nữa, tham thiền là tâm pháp, nếu có tâm chờ đợi là kiến lập, là chướng ngại, là có sở trụ, dẫu cho có ngộ cũng không cho trụ. không cho ôm cái ngộ, nên nói “Ngộ rồi đồng như chưa ngộ”. Nếu còn ôm sự ngộ tức chưa ngộ, vì mê ngộ là đối đãi, người triệt ngộ là hết mê, hết mê thì hết ngộ.
Hỏi: Sư phụ ngày nay hoàng dương Thiền tông, các vị Tổ ngày xưa có nói ra những lời chuyển ngữ hay những hoạt cú cho hành giả đi đến, vậy đời nay đời xưa có khác nhau không?
Đáp: Không khác, nhưng Chuyển ngữ là lời nói vô sở trụ, phải người kiến tánh mới nói ra được, vì đời nay không có người kiến tánh, nên chẳng nói được chuyển ngữ. Do đó có câu “Dù được Xá lợi bao nhiêu, không bằng đáp được một chuyển ngữ của ta”. Vì hễ nói ra được chuyển ngữ tức đã tự do tự tại, tự chủ vĩnh viễn.
Còn “hoạt cú” là người kiến tánh rồi mới sử dụng được, người chưa kiến tánh nói đến đâu trụ đến đó, là tử cú chứ chẳng phải hoạt cú. Ví như nhiều người giảng kinh thuyết pháp, cho tất cả đều là huyễn hóa, lọt vào biên kiến mà tự mình chẳng biết. Kinh Lăng Nghiêm nói: Phi huyễn còn chẳng thể kiến lập, huống là pháp huyễn ? Nay chấp chơn cũng lọt vào biên kiến, chấp giả, chấp vọng … cũng vậy; chấp cái chơn là thật chơn bệnh còn dễ trị, chấp cái vọng là thật vọng mới khó trị.
Hỏi: Những người theo tôn giáo khác đến học Tổ Sư Thiền có phải bỏ đạo bội sư không?
Đáp: Không phải. Trên thực tế, Phật giáo chẳng phải là một tôn giáo, mà là giáo dục, nói chúng sanh, chẳng những nhân loại, tất cả hàm linh đều bao gồm. Nhân loại chỉ là một phần của chúng sanh, trong nhân loại có đủ thứ tôn giáo, kể cả tà ma ác đạo, thế gian công, thương, kỹ, nghệ v.v… chẳng thiếu sót cái nào.
Phật giáo nói chúng sanh bình đẳng, chứ chẳng phải chỉ là tôn giáo bình đẳng hay con người bình đẳng, là tất cả chúng sanh đều cùng một Phật tánh, tất cả Phật pháp chỉ là hiển bày cái tâm của chính mình mà thôi.
Tôi thường dẫn dụ lời của ngài Long Thọ nói “Tâm như hư không vô sở hữu”, vì vô sở hữu nên trống rỗng, trống rỗng nên bao gồm, dung nạp và ứng dụng. Tất cả tôn giáo đều nhờ cái trống rỗng này dung nạp và ứng dụng, cho đến tất cả chúng sanh, sâu bọ, hàm linh, thảo mộc … chẳng cái nào ở ngoài cái vô sở hữu này, đều là đối tượng giáo đục của Phật, kể cả những người phỉ báng Phật cũng vậy.
Hỏi: Chánh pháp nhãn và Tổ sư thiền là hai hay một?
Đáp: Phương pháp tham Tổ sư thiền là đường lối để đi đến chánh pháp nhãn.
Hỏi: Hai danh từ “ tác ý” và “tạo tác” có giống nhau không?
Đáp: Tác ý là ý thức nổi niệm nhưng chưa thực hiện, còn tạo tác là đã thực hiện. Ví như tôi nổi ý muốn lấy cắp cái tách này nhưng chưa hành động, còn tạo tác là đã dời cái tách này ra khỏi chỗ cũ rồi.
Hỏi: Vậy thì tác ý có nhân quả không?
Đáp: Thọ giới Bồ tát rồi hễ tác ý là phạm giới, còn giới Thanh văn thì tạo tác rồi mới phạm, nhưng theo nhân quả thì khởi tâm tác ý đã là phạm.
Hỏi: Sư phụ dạy hành giả tham thiền phải dứt ba cái tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết. Trong khi thực hành công phu, chúng con đề lên câu thoại đầu để phát khởi nghi tình, ngay lúc đó, dù có tác ý hay không, chúng con vẫn lọt vào cái ghi nhớ biết nghi tình rồi?
Đáp: Không phải vậy, tìm hiểu là biết, có nổi lên cái biết mới có thể tìm hiểu, nếu giữ được nghi tình tức không hiểu không biết, vì không biết thì không nổi lên cái tìm hiểu, tự động chấm dứt cái tìm hiểu biết. Hễ khởi lên suy nghĩ tức là biết (biết mình đang suy nghĩ) thì chẳng phải nghi tình rồi! Lại nổi lên cái biết, nói mình có trí nhớ, ấy cũng chẳng phải tham thiền. Tham thiền là mình có trí nhớ hay không đều không biết; nhớ cũng không biết quên cũng không biết, mới gọi là nghi tình.
Theo ông thì tự cho là nhớ hay quên đều có ghi nhớ, ấy là sai lầm. Lại người giữ được nghi tình tự nhiên quên tất cả, nếu chưa quên tức công phu còn cạn.
Hỏi: Có phải Bắc Câu Lô Châu trước kia ở trên quả đất này và đã bị chìm đắm theo thời gian?
Đáp: Trong Phật pháp nói đến bốn đại bộ châu: Quả đất mình đang ở gọi là Nam Thiệm Bộ Châu, còn ba bộ châu kia ở ba hành tinh khác, chứ chẳng phải ở cùng quả đất này. Ví như bốn đại bộ châu là bốn quả địa cầu, ở Bắc Câu Lô Châu thì không có Phật pháp, mọi người đều sống trên một ngàn tuổi, do có phước báo nên hễ khởi niệm muốn ăn là có thức ăn trước mặt, ăn xong tự nó biến mất. Ở đó không có chế độ vợ chồng, sanh con rồi tự nó trưởng thành, chẳng cần ai nuôi, tất cả đều theo tự nhiên. Cho nên, Phật pháp chỉ thể hiện trên ba bộ châu, còn Bắc Câu Lô Châu thì Phật pháp chẳng thể đến được.
Sư phụ khai thị cho chúng ở Chùa Tam Bảo:
Nay đạo tràng này có phải hoàn toàn là Thiền tông chưa? Thiền tông là chuyên tu Tổ sư thiền, Tổ sư thiền thì không có đi đám để kiếm tiền nữa, tất cả chúng sống trong phạm vi của chùa đều phải chuyên tu Tổ sư thiền, phải giữ quy củ của Thiền đường, nếu phạm một lần cảnh cáo, hai lần, ba lần cảnh cáo còn không sửa thì đuổi.
Chùa cung cấp đầy đủ: ăn uống, thuốc men, Tu sĩ hay cư sĩ, quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, để kiến lập một đạo tràng chuyên tu như ở Trung Quốc vậy.
Nay Chùa dã có Ban Hộ Tự, có tài chánh, thư ký, tất cả đều theo tổ chức, nhưng do Ban Chức Sự chùa lãnh đạo để duy trì cho đạo tràng. Ban Chức Sự có thể một tháng, ba tháng hoặc sáu tháng họp một lần để trao đổi công việc, thu chi của chùa phải công bố hàng tháng, những việc nhỏ phải thông qua Ban Chức Sự chùa, việc lớn phải thông qua 2/3 hoặc hơn 1/2 chúng mới được thực hiện, theo thời Phật là phải thông qua 100%.
Theo tòng lâm Trung Quốc, khi đi làm công tác trồng trọt, canh tác là phổ thỉnh đại chúng, ai ai cũng phái tham gia, ngoại trừ những vị chức sự đã có công tác hàng ngày, tất cả thanh chúng đều phải đi làm, tức là: Giờ toạ hương, đi hương thì tập trung công phu, giờ làm việc là mọi người cùng ra làm.
Hỏi: Mặc dù nghe Sư phụ khai thị bản tâm như hư không vô sở hữu, chỗ đó thì con tin, nhưng bằng lòng thì con chưa bằng lòng?
Đáp: Tâm như hư không vô sở hữu, vô sở hữu thì chẳng có người bằng lòng hay không bằng lòng, cũng chẳng có việc gì bằng lòng hay không bằng lòng, nói tin là tin cái gì?
– Tin chỗ Sư phụ nói là hư không vô sở hữu.
– Ấy là ngài Long Thọ nói, và tôi chỉ đem nước miếng của ngài nhổ lại cho nghe thôi, chứ chẳng phải là lời của tôi.
Mặc dù nước miếng nhưng vẫn có hương vị, con vẫn tin như vậy, mà bằng lòng thì chưa bằng lòng.
– Vì có kiến lập sở hữu, nên nghịch với bản thể vô sở hữu.
Hỏi: Vậy xin Sư phụ từ bi khai thị cho con một câu như thế nào, để cho con ổn cái không bằng lòng?
Đáp: Cứ hỏi và nhìn đi song song.
Hỏi: Những gì giải quyết có thực tế như về nghề nghiệp chẳng hạn thì dễ chỉ, còn về việc thực hành tu tâm, sắc tâm vô hình tướng nên rất khó, rất tế nhị. Vậy con xin ngài vận dụng hết ngôn ngữ để diễn tả cách thực hành cho con nắm bắt được, chứ nói nhìn mà không mục tiêu thì con chẳng biết nhìn về đâu?
Đáp: Thì cứ nhìn mãi không thấy gì, không có mục tiêu mới đúng, hễ có mục tiêu là sai lầm, pháp của Phật Thích Ca truyền là vậy.
Ví như ban đầu tôi dùng phương tiện dạy người nhìn vào chỗ đen tối, mọi người lại chấp vào chỗ đen tối đó trở thành mục tiêu; có tối tức có sáng để tương đối. Tự tánh bất nhị chẳng tương đối, luôn cả cái biết cũng không thể kiến lập. (Sư phụ đã giảng về bốn bài kệ nói về chữ TRI của ngài Vĩnh Gia, lược qua).
Hỏi: Vậy là cứ nhìn vào chỗ không biết đó, không có chỗ nhìn vẫn cứ đề lên và cứ nhìn?
Đáp: Cứ nhìn, không có chỗ nhìn, nhìn không thấy gì mới đúng, nếu thấy có chỗ nhìn và nhìn thấy cái gì đó thì không đúng rồi.
Hỏi: Nhưng con nhìn một thời gian rồi tự nhiên câu hỏi cũng mất, mà con cũng không biết mình của tham thiền nữa không !
Đáp: Phải tiếp tục hỏi và nhìn nữa, như vậy sẽ mau đến chỗ chơn tham, vì chơn tham là vô tham, tức không biết mình đang tham thiền, chứ chẳng phải không có tham.
Hỏi: Nhưng ngay chỗ nhìn không biết đó, con lại quên câu thoại đầu và có vọng tưởng nổi lên, cuối cùng con phải giựt mình …
Đáp: Nếu vậy phải đề lại, cũng như ngài Lai Quả có một lần bị ngưng hết hai ngày rồi mới đề lại, đó cũng là việc thường. Phải hỏi và nhìn đi song song, khi nào đến được thoại đầu, câu thoại mới tự mất.
Hỏi: Có phải câu thoại đầu cũng là một ý niệm, mà ý niệm này đưa đến chỗ ý thức chẳng thể tìm đến, nên một thời gian sau khi tham thì câu thoại tự vỡ, ý niệm đó tiêu?
Đáp: Không phải, câu thoại chỉ là kích thích niệm không biết, nếu không có câu thoại để hỏi thì niệm không biết đó chẳng thể nổi lên được, nên phải hỏi và nhìn miên mật.
Hỏi: Trong Thiền Thất Khai Thị Lục, ngài Lai Quả nói không cho buông ý niệm?
Đáp: Thì cái không hiểu không biết đó cũng là ý niệm. Chư Phật chư Tổ rất sợ người ta chấp theo lời nói, như trong Kinh Lăng Nghiêm có bảy chỗ tìm tâm, A Nan cho là tâm ở trong, Đức Phật nói chẳng phải, cho là ở ngoài cũng chẳng phải, cho là ở giữa cũng chẳng phải … bảy chỗ đều nói chẳng phải, nhưng cái chẳng phải của Phật đâu có đúng! Bây giờ cứ y theo lời “chẳng phải” của Phật thì sai lầm. Tại sao? Vì nếu cái tâm không có ở trong thì làm sao cùng khắp? Không có ở ngoài thì làm sao cùng khắp? Cho nên, Đức Phật rất sợ người chấp vào lời Phật, cuối cùng ngài nói “Bốn mươi chín năm chưa từng nói một chữ”, “Ai nói ta có thuyết pháp là phỉ báng Phật …”
Lời của Phật còn chấp không được, huống là lời của ngài Lai Quả? Ấy chỉ là phương tiện tạm thời thôi. Nay bất cứ ở trong hoàn cảnh nào, nhớ hay quên, cứ hỏi và nhìn đi song song, giữ được nghi tình sẽ đưa hành giả đến kiến tánh thành Phật. Chớ dùng ý thức phân biệt nghi tình, phân biệt thoại đầu, phân biệt có phải lọt vào vô ký không, hay vọng tưởng v.v … Cứ phân biệt hoài làm sao công phu miên mật được?
Những gì thầy đang hỏi đều là thói quen phân biệt từ lâu đời rất khó sửa, như bản thân tôi, vẫn biết đó là tập khí nhưng mấy mươi năm nay cũng chưa sửa được.
Hỏi: Nếu tham thiền đến không biết thì dễ phạm qui củ, hễ bị đuổi thì sao?
Đáp: Lúc không biết thì làm sao biết phạm qui củ? Đuổi ra Thiền đường thì cứ ra, vẫn còn giữ cái không biết, chỉ cần có nghi tình, sẽ đưa mình đến chỗ kiến tánh.
Như công án Bà lão đốt am, sau này trở về xin thì bà cũng cho, đâu có sao ! Như Tổ thứ chín của phái Lâm Tế, lúc đầu người học rất đông, đuổi mãi còn lại sáu người, mà sáu người này đuổi hoài không đi. Ở vùng đó rất lạnh, nhất là vào mùa đông, Tổ lấy nước lạnh tạt vào họ cũng không đi, rồi Tổ không cho ở trong nhà, đuổi ra ngoài thì quí vị này ở lại hàng ba, sáng ra, Tổ nói: “Đã ở lại đây ngủ mấy đêm, phải trả tiền cho chùa”. Những người đó đâu có tiền, phải đi xin tiền để trả, rồi lại xin Tổ cho ở lại nữa, sau cùng sáu người đều kiến tánh triệt để và làm Tông sư.
Nay chúng ta, hành giả tham thiền đều là con cháu của sáu vị này. Bị đuổi có sao đâu! Sáu vị này không biết bị đuổi bao nhiêu lần, mà bị đuổi một cách rất thậm tệ nhưng vẫn kiên trì ở lại. Nên biết cổ nhân đời đưa cầu pháp rất kiên tâm, như ngài Nhị Tổ đứng suốt đêm dưới bão tuyết và chặt cả cánh tay. Cho nên, chớ sợ bị đuổi, vô sở sợ mà!
Hỏi: Con rất thích tu thiền nhưng không thích học pháp lý, vậy có được không?
Đáp: Tổ sư thiền không có pháp lý, quét sạch tất cả pháp lý, chẳng còn pháp lý nào cả mới đúng với bản tâm trống rỗng vô sở hữu.
Hỏi: Con nghe một vị thầy nói phải học qua Phật học phổ thông mới tu được?
Đáp: Ấy là Giáo môn, còn đây là Thiền môn, là ở ngoài Giáo môn. Học Giáo môn phải cần văn tự. Thiền môn thì bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền.
Hỏi: Con tham thoại đầu, có ý niệm thành Phật, nên con hỏi “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?” (ngưng một lúc), “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?” (ngưng một lúc), “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?”
Đáp: Trước hết, Sư nổi niệm “muốn thành phật” đã không đúng rồi, thoại đầu là chưa có ý niệm nào cả mới gọi thoại đầu, phải ngoài câu thoại đầu không hiểu không biết ra, chẳng có ý niệm nào khác, câu thoại đầu tự động chấm dứt các ý niệm khác không nổi lên. Lại nữa, cách hỏi câu thoại, nếu có khoảng cách thì có kẽ hở, không miên mật; công phu miên mật không cần tập trung tinh thần, không cần công phu, chỉ cần có một chút nghi tình không hiểu không biết, như một sợi chỉ kéo dài không đứt, vừa hỏi xong hỏi nữa, câu hỏi liên tiếp khít nhau, không kẽ hở, không gián đoạn, hỏi và nhìn đều phải miên mật

DUY LỰC NGỮ LỤC – QUYỂN HẠ PHẦN 22

DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN HẠ
(Bài giảng trong các năm (1992 – 1999)
HT. THÍCH DUY LỰC
—-o0o—

Bài giảng trong các năm 1992 – 1999
22.
24/06/97 – 28/06/97; 22/07/97 – 28/07/97 tại Chùa Pháp Thành, quận. 6
Hỏi: Thế nào là Bát Nhã vô tri? Thế nào là Hòa quang đồng trần?
Đáp: Trí của Bát Nhã tự động, chẳng thể kiến lập tri, vì hễ có tri tức có vô tri để đối đãi. Hòa quang đồng trần nghĩa là tất cả đều bằng nhau, như ánh sáng cây đèn, đèn lớn thì ánh sáng mạnh hơn, đèn nhỏ ánh sáng yếu hơn, nhưng ánh sáng của đèn lớn đèn nhỏ hòa chung thành một ánh sáng, vốn chẳng có khác, dù muôn ngàn cây đèn cũng cùng một ánh sáng, gọi là hòa quang đồng trần. Ví như bụi trần hòa lẫn trong không khí mà chúng ta không thấy, khi ánh sáng chiếu qua khe cửa, sẽ thấy bụi trần lăng xăng.
Hỏi: Nay người ta dùng các loại ngũ tân như hành, tỏi, củ kiệu hương cừ … chế thành thuốc chữa bệnh, khi Phật tử bị bệnh phải dùng những thứ thuốc đó, có được không?
Đáp: Thì cái đó được khai, như uống rượu cũng vậy. Kỳ thật dùng ngũ tân chẳng phải có phạm giới, nhưng vì chướng ngại cho người tu, hễ ăn sống thì kích thích tánh dâm dục, ăn chín thì kích thích tánh sân hận, nên phải tránh dùng.
Hỏi: Tham Thiền Phổ Thuyết nói “Lục căn khó thâu”, còn Lai Quả Thiền sư nói là như trong nhà đốt cây đèn, các tông phái khác dùng búa đóng bít, che đậy các cửa, còn Thiền Tông thì chẳng phải vậy, trước hết đập bể cây đèn, kế đến là triệt hạ căn nhà, vậy nghĩa này như thế nào?
Đáp: Ấy là thí dụ: Trong nhà đốt lên cây đèn, ánh sáng lọt ra ngoài sáu cửa, nay muốn không cho ánh sáng lọt ra ngoài, nên dùng vải che lại, sáu cửa đều che bít, nhưng khi gió thổi thì bị hở, ánh sáng vẫn lọt ra ngoài, còn Thiền Tông thì khỏi cần che bít cửa sổ, chỉ cần tắt cây đèn trong nhà thì chẳng còn ánh sáng lọt ra ngoài.
Ánh sáng thí dụ vọng tưởng của bộ não, Tiểu thừa thì bít hết lục căn để trừ vọng tưởng, còn Thiền Tông trừ hẵn nguồn gốc, dùng nghi tình chấm dứt hết tất cả biết, hoạt động của bộ não hết thì chẳng còn vọng tưởng nổi lên, lục căn vẫn làm việc bình thường.
Hỏi: Thế nào là phước huệ song tu?
Đáp: Bố thí cúng dường là tu phước, tham thiền là tu huệ, nếu hai thứ đều thực hành gọi là phước huệ song tu.
Hỏi: Thế nào là “lục mở nhất tiêu” trong Kinh Lăng Nghiêm?
Đáp: Lục là lục căn, nhất chỉ thân thể, ý nói thân thể dù chỉ có một, nhưng có lục căn, nếu lục căn đã tiêu mà còn chấp thật thân này cũng không thể giải thoát.
Hỏi: Danh từ “Cổ đức” như thế nào?
Đáp: Cổ là người xưa, Đức là cách xưng hô, tức những vị Đại đức hồi thời xưa, chứ không phải chỉ gọi những vị có đạo đức, theo cách xưng hô ở Việt Nam là từ Hòa thượng rồi đến Thượng Tọa, Đại Đức, nhưng theo giới luật nhà Phật, khi thọ giới Bồ tát, tôn xưng Phật Thích Ca là “Đại Đức Thích Ca Mâu ni”, tôn xưng Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Di Lặc cũng là Đại Đức, do đó Dại Đức cũng không phải là bậc nhỏ. Thật ra, muốn làm Hòa thượng, thân giáo sư thì Tỳ kheo thọ giới mười năm có thể rời thầy, tự làm Hòa thượng dạy đệ tử, còn muốn làm Thượng Tọa phải hai mươi năm, nên Thượng Tọa cũng không phải nhỏ hơn Hòa thượng, nay là vì theo người đời đã quen xưng hô như thế.
Hỏi: Thế nào là nghĩa câu “Cái gì có bỏ ra, không có đừng đem vào” của ông Bàng Uẩn?
Đáp: Cũng như hư không trống rỗng vô sở hữu mới dung nạp và ứng dụng, muốn hiển bày tâm mình, thì những gì đã có trong tâm đem bỏ ra hết, những gì không có chớ mang vào, hễ mang vào tức kiến lập sở hữu, là chướng ngại.
Hỏi: Thế nào là trạm nhập hợp trạm?
Đáp: Chữ Trạm nghĩa là nước trong lặng chẳng làn sóng, có thể nhìn thấu tới đáy, khi nào liệng cục đá vào sẽ khiến nổi lên làn sóng. Đó là hình dung ý thức của mình, “Trạm nhập” tức ý thức hoạt động, mặc dầu không có làn sóng, nhưng ôm cái trong lặng đó (ôm sự ngộ của mình) của không được, vẫn còn ở trong mê trí tứ tướng của bậc thánh. Trạm nhập không có hợp với cái gì, nếu có hợp thì chẳng phải vô sở hữu vậy.
Hỏi: Thế nào là nghĩa “Người chỉ cần vô dục, vô y tức là Phật” của Hòa thượng Nham Đầu?
Đáp: Không có một dục vọng nào gọi là vô dục, không có y vào chỗ nào cả gọi là vô y, cũng là nghĩa trống rỗng vô sở hữu của tâm mình. Đầu óc của con người suốt ngày làm việc gì đều muốn thỏa mãn dục vọng của mình, nhất là vấn đề ham tiền, có tiền thì làm gì cũng được, tiền càng nhiều càng tốt. Do đó, Đức Phật cấm tu sĩ không được cầm tiền, mười phương tín thí cúng dường tiền là để cho mình làm Phật sự, tự giác giác tha, đâu phải để mình thỏa mãn dục vọng! Nên phải vô dục và chẳng nương tựa vào chỗ nào cả.
Hỏi: Ngài Vĩnh Gia nói: “Trống rỗng không, chống nhân quả, mênh mênh mông mông chiêu tai họa” là thế nào?
Đáp: Chấp vào cái không, cho là không có nhân quả thì làm ác cũng chẳng sao, là lọt vào biên kiến, dĩ nhiên phải chiêu tai họa.
16/05/97 – 20/05/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc
Hỏi: Chúng con là Tăng sinh ở cần Thơ, muốn xin Hòa thượng giải giùm, cái này là cái gì?
Đáp: Hãy tự hỏi chính mình, chẳng những cái này không biết, tất cả đều không biết, nay chớ hỏi việc ở ngoài thân, ngay sợi tóc của ông, tế bào của ông còn chẳng tự biết, tức những gì trong cơ thể cũng chẳng tự biết, nói chi ở ngoài?
Hỏi: Tại sao không biết?
Đáp: Vì muốn có sở hữu, muốn có cái biết, cho cái biết cũng là sở hữu của mình. Tại có tư tưởng chấp thật, cho nên, cái biết sai lầm cũng muốn biết. Ông là Tăng sinh, nay ông học biết được cái gì? Hãy nói ra thử?
– … Con không biết.
Đáp: Tự mình học mà không biết, còn muốn hỏi cái gì? Bên Thiền Tông, nghi tình là dùng để tự hỏi, nếu hỏi Phật Thích Ca, dù Phật nói được, đối với tự mình có ích lợi gì? Huống là nói không được! Đức Phật rất sợ những người cứ đuổi theo lời nói để chấp thật như ông, nên trong Kinh Kim Cang, Phật nói: “Ai nói ta có thuyết pháp là phỉ báng Phật”, “Vô pháp khả thuyết mới là thuyết pháp”.
Ông là tăng sinh , những cái bổn phận của ông mà chẳng chịu học, chẳng lẽ rồi cũng trả lời thầy giáo rằng “tôi không biết, không biết là học cái gì?”
Hỏi: Vùng con ở rất xa, chỗ đó chẳng có bậc thầy dẫn dắt tu hành, nên một số cư sĩ thỉnh kinh sách về tự học tự tu, cũng có một số Phật tử đã thọ giới Bồ tát nhưng về nhà không giữ được giới, không trì giới, vậy có phạm giới không?
Đáp: Thọ giới rồi không giữ giới là phạm giới, nếu không hành trì, không giữ được thì xả giới. Trong Phật pháp có thể xả giới, ví như thọ bát quan trai, dù có một ngày một đêm, nhưng cũng xả được.
Hỏi: Vậy xả như thế nào?
Đáp: Thọ giới khó, xả giới thì dễ, chỉ là nói với một người nghe biết tiếng nói là được. Nói với người ấy rằng: “Tôi đã lỡ thọ giới Bồ tát nhưng nay không giữ được, nên xả hết những giới mà thôi đã thọ được”, ấy là được.
Hỏi: Có phải nói với người tu sĩ hay người thường?
Đáp: Chỉ là cư sĩ với cư sĩ cũng được. Tức là người thọ ngũ giới nói với cư sĩ đã thọ ngũ giới, người thọ Bồ tát giới thì nói với người đã thọ Bồ tát giới, cư sĩ cũng được, khỏi cần thầy, còn khi truyền giới thì phải do thầy truyền mới được, sám hối cũng vậy, chẳng thể hối trước bàn thờ Phật vì không ai chứng minh cho.
Hỏi: Xin Sư phụ nói về sự truyền thừa của Tổ Sư Thiền như thế nào?
Đáp: Ngài Lục Tổ là Tổ thứ sáu ở Trung Quốc, nếu tính từ Sơ tổ Ca Diếp thì ngài là Tổ thứ ba mươi ba. Mỗi đời chẳng phải chỉ có một người kiến tánh, nhưng chỉ chọn một vị làm Tổ để tiêu biểu cho người đời sau.
Dưới Lục Tổ có bốn mươi ba vị kiến tánh mà không một người làm Tổ, chỉ được ấn chứng đã kiến tánh mà thôi. Đến sau này thì chưa kiến tánh cũng nối pháp, ví như thời gần đây có ba vị kiến tánh là ngài Lai Quả, ngài Hư Vân, và ngài Nguyệt Khê; ngài Lai Quả kiến tánh nhưng thầy của ngài khi truyền pháp cho ngài là chưa kiến tánh, ngài Hư Vân cũng vậy.
Thời xưa, khi người đệ tử kiến tánh rồi mới gửi thơ báo cho thầy rằng “Con được thầy khai thị khiến ngộ nay xin nối pháp của thầy”. Có khi thư gởi đến nơi thì thầy đã tịch rồi, có khi mười mấy năm sau thư mới đến, thầy cũng quên đi có người đệ tử đó.
Đệ tử sau khi kiến tánh ra hoằng pháp, đốt nén hương đầu tiên tuyên bố rằng “Tôi nói pháp của thầy nào đó”, lúc chưa tuyên bố thì không biết vị đó là nối pháp của ai.
Thời nay là đệ tử chưa kiến tánh thầy cũng truyền pháp, ví như tôi là đời thứ 89, truyền xuống đời thứ 90. Mặc dầu chưa kiến tánh, nhưng có tham thiền cũng còn khá, truyền mãi đến người không có tham thiền, người niệm Phật cũng truyền, vậy cũng được, cũng là có sự tu, nay nhiều người tu Tịnh Độ cũng nối pháp Thiền Tông. Nhưng, tồi tệ hơn là người Thiền cũng không tu, Tịnh cũng không tu, chẳng tu gì hết, chỉ là đi ứng phó kinh sám cũng được truyền thừa, ghi đầy đủ trong pháp quyển, cho nên, truyền mãi là không có giá trị gì cả.
Hỏi: Thế nào là tự tứ?
Đáp: Tự tứ là giải hạ tự tứ. Theo giới luật của Phật, tất cả Tỳ kheo đều phải nhập hạ, đến ngày 14, 15, 16 của tháng bảy là giải hạ, tự tứ là tự kiểm thảo, tất cả chúng đều phải tuần tự ra quỳ trước mặt đại chúng hỏi về kiến, văn, nghi: Kiến là mắt thấy, văn là tai nghe, nghi là không thấy không nghe nhưng có nghi. Ví như hỏi: Tôi chẳng biết tự mình có phạm giới hay không, nên nhờ đại chúng hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc nghi ngờ tôi có phạm giới thì xin cử tội ra để giúp đỡ cho tôi sám”, gọi là tự tứ.
Hỏi: Con thì ăn chay, ở chung với ông bà nội, hằng ngày bà nội đi chợ mua thịt cá về, bảo con nấu nướng, vậy con có mang tội không?
Đáp: Cấp trên có quyền, mình là cấp dưới, nghe lệnh phải làm theo, tức chẳng có tâm tạo thì không có tội, không tạo nhân thì không phải chịu quả, mà người ra lệnh phải chịu nhân quả đó. Còn hễ trong tâm mình cũng khởi niệm thích như vậy hoặc muốn ăn như vậy thì phải cùng chịu cái quả.
Hỏi: Vậy con muốn trốn ông bà đi tu, có được không?
Đáp: Sụ tích của Phật Thích Ca ai cũng biết, ngài cũng trốn hỏi hoàng cung để đi tu. Nhưng hễ đi tu phải tu cho thành, cũng như Đức Phật vậy, tức là phải tu chơn thật, dù không thành công cũng phải chơn tu, nếu không thì mắc nợ thí chủ. Nên nhớ rằng:
Thí chủ một hạt gạo,
Lớn như núi Tu di.
Nếu không tu giải thoát,
Mang lông đội sừng trả.
Do đó, tôi thường khuyên là nếu chơn tu, tại gia cũng được, không cần xuất gia, nhất là người nữ.
Hỏi: Ở nhà khó tu lắm, thưa Sư phụ?
Đáp: Nếu tu Tổ Sư Thiền thì không phải là khó, chỗ nào cũng tu được.
Hỏi: Khi xưa trên hội Linh Sơn, đức Thế Tôn niêm hoa thị chúng, cả hội ngơ ngác, chỉ có Tôn giả Ma Ha Ca Diếp mỉm cười tỏ ngộ, được đức Thế Tôn truyền tâm pháp và nói: “Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, nay phó chúc cho Tôn giả Ca Diếp”.
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn có vị dịch rằng: “Con mắt là cửa của âm dương, là chỗ thần dạo chơi, phải thâu thần nơi con mắt, khiến trở về tâm khiếu, con mắt xem chỗ khiếu ấy chẳng rời, ấy là chỗ chánh pháp nhãn tạng, khế hợp với Niết bàn diệu tâm”, vây có đúng không?
Đáp: Đó là lời của tà ma ác đạo, vì chẳng hiểu Phật pháp. Đã nói Thật tướng vô tướng thì làm gì có những thứ đó?
Hỏi: Ngài Hư vân có nói: “Pháp tu phản văn văn tự tánh” của Bồ tát Quán Thế Âm tức là thoại đầu, vậy hai pháp Phản văn văn tự tánh và tham Tổ Sư Thiền có giống nhau không? Nếu đồng thì đồng ở chỗ nào? Nếu khác thì khác ở chỗ nào?
Đáp: Tổ Sư Thiền là muốn hiển hiện toàn vẹn của tự tánh, tự tánh bất nhị, chẳng nhân duyên đối đãi, Kinh Lăng Nghiêm nói phản văn văn tự tánh: Văn là nghe, trở lại nghe tự tánh, chẳng nghe âm thanh; chẳng những không nghe động, cũng không nghe tịnh, vì động tịnh là pháp sanh diệt, còn tự tánh là pháp bất sanh bất diệt. Nay không nghe âm thanh sanh diệt động tịnh, tức chiếu cố thoại đầu.
Chiếu là chiếu soi, cố là nhìn, nhìn chỗ không biết gì hết, vì không có tướng, trống rỗng vô sở hữu nên chẳng đối đãi, tức là tự tánh bất nhị. Phản văn văn tự tánh cũng như mình nhìn chỗ thoại đầu không biết đó, ý vốn không khác.
Chiếu cố thoại đầu là dùng tánh thấy, phản văn là dùng tánh nghe, cũng là một thứ. Khi sắc thân này chết, đem đi thiêu thành tro, chôn thành đất, còn tánh thấy, tánh ngửi, tánh nếm tồn tại vĩnh viễn chẳng có chết mất, vấn đề này có giảng trong Kinh Lăng Nghiêm.
Hỏi: Thuở Phật còn tại thế, Ngài A Nan bị nàng Ma Đăng Già dùng ma thuật nhiếp vào nhà dâm, sao phải nhờ Đức Phật sai Văn Thù Sư Lợi đem thần chú Lăng Nghiêm đến mới giải cứu cho A Nan được?
Đáp: Do A Ngài và Ma Đăng Già kiếp trước đã có nghiệp duyên, chẳng tự giải thoát được, nên Đức Phật phải sai Bồ tát Văn Thù đem thần chú đến cứu, và nhân dịp độ luôn cho Ma Đăng Già. Sau đó Ma Đăng Già trở thành Tỳ kheo ni và được chứng quả A na hàm, ấy cũng là nhân duyên.
Hỏi: Những vị Tổ đã ra đi thường để lại xá lợi, còn những vị Tổ thời gần dây như ngài Nguyệt Khê, sao để lại kim thân bất hoại làm gì?
Đáp: Nguyện lực của mỗi người mỗi người mỗi khác, như ngài Lục Tổ, Hám Sơn, Đơn Điền cũng để lại nhục thân, ngài Nguyệt Khê cũng vậy. Theo nghi lễ của Phật Giáo, các vị Tổ khi tịch thường là hỏa táng, vị nào có sự tu chứng thì để lại xá lợi, vị nào chẳng tu chứng thì không. Nhưng có xá lợi chẳng thể minh chứng cho sự kiến tánh, kiến tánh mới cần thiết, còn việc có xá lợi chưa chắc đã giải thoát, có khi còn ở trong sinh tử luân hồi.
Hỏi: Người tu theo đạo công giáo khi chết là trở về với Chúa, theo Tịnh Độ thì vãng sanh cõi Cực Lạc, còn hành giả tham Tổ Sư Thiền thì nếu chưa kiến tánh, vãng sanh về đâu?
Đáp: Tại Thầy chưa tin tự tâm, tự tâm vốn chẳng sanh diệt, người khi kiến tánh mới biết vốn không có sanh tử, không sinh tử thì có đi về đâu?
Do bản tâm này khắp không gian chẳng khứ lai nên gọi Như Lai, khắp không gian nên chẳng chỗ nào không biết, nếu mắc đi về đâu, ấy là có chỗ, chỗ này biết thì chỗ khác không biết, có đi về đâu là không cùng khắp, nếu cần đi về đâu thì không được gọi là Như Lai.
Còn khắp thời gian thì chẳng gián đoạn, gọi là Niết bàn, ví như những người tu đạo Thiên Chúa, mặc dầu được sanh cõi Trời, nhưng hễ ngủ mê là không biết, chết giấc cũng không biết, chết rồi vẫn không biết. Người kiến tánh thì khác, ngủ mê vẫn biết, chết giấc, chết rồi vẫn biết; vì kiến tánh rồi thì biết không có sự chết, nói sinh tử chỉ là cảm giác sai lầm mà thôi. (Sư phụ đã ví dụ do thân xoay thấy căn nhà xoay, lược qua).
Hỏi: Làm thế nào khi ngủ vẫn tham thiền được để đi đến thoại đầu?
Đáp: Phải tập dần, tức hỏi và nhìn câu thoại đi song song hoài, sẽ có ngày đến thoại đầu. Tôi nêu thí dụ: Hễ mỗi ngày tăng được một phút thì bốn năm đến thoại đầu, mỗi ngày tăng nửa phút thì tám năm, tăng ¼ phút thì mười sáu năm, tăng ít hơn nữa thì ba mươi hai năm đến thoại đầu.
Hỏi: Có một vị xuất gia cùng con, vị này ở trong chúng hay nổi sân, làm việc chúng cũng sân, lại hay phiền não. Đã là người xuất gia mà không bỏ được những tập khí đó thì phải làm sao? Xin Sư phụ từ bi khai thị.
Đáp: Do không tin pháp môn, cũng không tin tự tâm, chẳng thực hành cho đúng thì đâu thể sửa lại tạp khí phiền não từ lâu đời!
Hỏi: Thế nào là nhiễm, thế nào là chẳng nhiễm?
Đáp: Có sở trụ là nhiễm, không trụ tức chẳng nhiễm.
Hỏi: Phật mẫu là ai?
Đáp: Đó là do những người mê tín không biết Phật pháp, ví như gọi Bồ tát Quán Thế Âm là Phật mẫu. Bồ tát Quán Thế Âm đâu phải đàn bà! Đó chỉ là một trong thiên bá ức hóa thân hóa độ chúng sinh, như trong Phẩm Phổ Môn của Kinh Pháp Hoa đã nói. Chúng ta dù là phàm phu cũng có tam thân, cũng có thần lực đó, chỉ tại không thể sử dụng được thôi.
Hỏi: Trong Mộng Du Tập của ngài Hám Sơn, có vị Cổ đức nói “Ngộ pháp vô sanh thấy sát na” là thế nào? Đã ngộ vô sanh thì có sát na nào có thể thấy? Nếu thấy có sát na tức chẳng phải ngộ vô sanh, sao lại nói “Ngộ vô sanh mới thấy sát na?”Thế thì vô sanh với sát na là một hay khác?
Đáp: Vì phương tiện muốn cho phàm phu hiểu được một phần nào, nên mới kiến lập sát na, ấy là do thế gian đã kiến lập cái sát na rồi nên sát na là do kiến lập mới có. Tôi đã nói, Phật pháp chẳng thể kiến lập, luôn cả hư không cũng vậy, huống là sát na!
Kiến lập thì chẳng phải thực tế, Đức Phật vì sợ chúng sinh chấp vào cái kiến lập đó, nên kiến lập rồi lại phủ định, do đó Phật pháp có lập và phá: Ví như đối với hạ căn thì chỉ có lập không có phá, đối với trung căn là lập rồi phá, đối với thượng căn thì chẳng lập cũng chẳng phá, vì có gì để lập đâu!
Hỏi: Lọt vào hư không mỗi lần dài hơn một chút có phải tiểu tử không?
Đáp: Không phải, tôi nói “lọt vào hư không” chỉ là phương tiện để thí dụ cho biết, nay chúng ta cũng đang ở trong hư không, làm sao có lọt vào đâu nữa? Hư không này tức là tâm của mình, bây giờ cũng đang dùng, ấy là thực tế, mục đích để tăng cường lòng tin cho hành giả tham thiền, ngoài ra chẳng phải có đạo lý cao siêu.
Hỏi: Con muốn xin Sư phụ kể lại quá trình tu tiến công phu từ lúc bắt đầu khởi công tham Tổ sư thiền, cho đến tối ngộ ?
Đáp: Mọi người hãy tự lo công phu của mình, chứ đừng lo cho người khác. Quá trình của quá khứ chư Phật chư Tổ mỗi mỗi đều khác biệt, các vị đồng tham cũng vậy, việc đó vô ích mà còn có chướng ngại. Cho nên, hãy tự lo tu đi. Cứ tự tham cho miên mật, đến chứng ngộ là thự biết, chứ dùng bộ não đi tìm hiểu la sai lầm. Lời nói của Phật còn không cho người ta bắt chước, huống là người chưa kiến tánh!
Ví như Phẩm thí dụ Thọ Lượng của Như Lai với tám tướng thành Phật ở cõi Ta Bà này khác xa lấm, ấy là chuyện do Phật kể còn không phải thực tế mà ? Nay ông muốn tìm cái không phải thực tế để làm gì? Chỉ cần hỏi và nhìn câu thoại đầu thì sẽ đi đến chỗ thực tế, nếu dùng bộ não đi tìm hiểu, chỉ càng tìm càng xa thôi.
Hỏi: Ý con chỉ muốn Sư phụ dẫn dắt chúng con đi đến chỗ thoại đầu mà thôi.
Đáp: Tôi đã chỉ ra đường lối do chư Tổ truyền lại cho mọi người tu; do đó không cho đi theo lối tẻ, không cho đi bậy. Như ông hiện nay hỏi là theo lối tẻ, không đúng với đường lối. Đường lối tham Tổ sư thiền là giữ nghi tình không hiểu không biết, là chấm dứt tất cả tìm hiểu biết, ghi nhớ biết, suy nghĩ biết, nay đi tìm hiểu những cái không thực tế là chướng ngại sự tham thiền, đã là nghịch rồi, tìm hiểu sự tích của Phật Thích Ca cũng còn không được, ví như nói về ngày Phật đản sanh chẳng hạn.
Hỏi: Lục Tổ nói trong Kinh Pháp Bảo Đàn về “Hàng phục tâm,an trụ tâm, nhưng tâm thì vô sở trụ, trụ nơi vô sở trụ mới gọi là chọn trụ” là thế nào?
Đáp: Vấn đề An trụ tâm, hàng phục tâm trong Kinh Kim Cang, những người có tư tưởng chấp thật thì giải thích theo chủ quan của mình mà chẳng biết ý của Phật nói câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, vì vọng tâm của mình luôn lăng xăng, nay thực hành tham Tổ sư thiền, hỏi và nhìn đi song song đã là hàng phục tâm rồi.
An trụ tâm cũng vậy, hễ giữ được nghi tình thì tâm luôn an trụ, chẳng bị ngoại cảnh lôi kéo, tốt đẹp thế nào cũng không biết, xấu cách mấy cũng không biết, ấy là hàng phục tâm, an trụ tâm rồi, nếu đùng lời nói để giải thích theo cách chủ quan là sai, không đúng với thực tế.
Hỏi: Hành giả tham Tổ sư thiền đối với những ngày giỗ Tổ, phải thờ cúng ông bà cha mẹ như thế nào?
Đáp: Không có cúng kiến thế nào, nếu tự mình không muốn cúng thì chẳng cúng gì cả, còn muốn theo thế tục cúng thì cứ cúng, cũng chẳng có chướng ngại. Tức là: Chỉ cần hỏi và nhìn đi song song, ngoài ra không biết tới; nếu có bà con thân thuộc bắt buộc mình phải cúng thì cúng cũng được.
Vì bản tâm là Phật, nay tu hành là muốn phát hiện bản tâm của mình để kiến tánh thành Phật, còn mục đích cúng kiến là gì? Hễ muốn phù hộ thì không cần phù hộ, cũng chẳng thể phù hộ, còn cúng ký niệm thì cũng được, tất cả đều tùy duyên, chứ chẳng phải nhất định phải cúng hay không cúng, nhất định cần hay không cần.
Hỏi: Thế nào là chánh pháp nhãn tạng?
Đáp: Tổ sư thiền này là chánh pháp nhãn tạng. Khi đức Phật truyền pháp cho Sơ tổ Ma Ha Ca Diếp, Ngài có nói: “Nay đem chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm truyền cho Ca Diếp”, vậy là rõ rồi.
Hỏi: Khi tham thoại đầu phải có câu hỏi mới sanh được nghi tình, như vậy hành giả luôn an trú trong cái nghi, nhưng dần dần do cái nghi không giải quyết được nên sự tham trở thành niệm rồi?
Đáp: Không phải, trong câu tham phải có cái nghi, không hiểu không biết mới thành nghi, nếu chỉ có hỏi có thể biến thành niệm, nếu vừa hỏi vừa nhìn thì không biến thành niệm.
Hỏi: Hành giả tham thiền làm sao biết mình là tiểu ngộ đại ngộ?
Đáp: Hễ ngộ rồi còn ôm cảnh giới ngộ, tức cho là mình đã ngộ thì gọi là tiểu ngộ, hễ ngộ rồi luôn cả cảnh giới ngộ cũng không mới là đại ngộ. Vì ngộ là đối với mê, nếu ngộ triệt để thì hết mê, mê đã hết, ngộ cũng không còn cho nên mê ngộ đều sạch.