Mời đóng góp trùng tu, xây dựng Chùa Đại Phẩm – Xã Đại Yên – Huyện Chương Mỹ – Hà Nội

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

KÍNH BẠCH QUÝ CHƯ TÔN ĐỨC TĂNG NI
Kính Thưa Quý Vị Phật Tử gần xa và Các Đơn Vị Tổ Chức, Nhà Hảo Tâm.

“Xây chùa, tô tượng, đúc chuông,

Ba công đức ấy thập phương nên làm”

Công Đức Vô Biên Vô Lượng

Nhờ Hồng Ân Tam Bảo gia hộ. Được sự quan tâm của lãnh đạo Chính Quyền, cùng các cấp Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Sự thành tâm ủng hộ của Phật tử thập phương. Đây là niềm ao ước bấy lâu, mong muốn tương lai sẽ trở thành nơi trung tâm Tu Học cho Tăng Ni Phật tử trong và ngoài nước đến đây Tu Học theo Pháp môn Tịnh Độ.

Hiện Tại Chùa Đại Phẩm – Xã Đại Yên – Huyện Chương Mỹ – Hà Nội. Đang xuống cấp, tượng phật cũng vậy. Nhà Chùa mới thành lập Đạo Tràng cho phật tử gần xa về Tu Tập… Nhưng vì Chùa nghèo, kinh phí hạn hẹp thiếu thốn. Kính mong Quý Vị phật tử gần xa phát Bồ Đề tâm ủng hộ để Chùa sớm được tu sửa cùng làm được nhiều việc lợi lạc cho chúng Sinh. Công đức thật Vô Lượng Vô Biên.

Nay Bản Chùa xin thông bạch tới Quý Chư Tôn Đức Tăng Ni và có lời kêu gọi phổ khuyến tới Quý phật tử thập phương xa gần các Tổ chức Cá nhân, Các Doanh nghiệp phát bồ đề tâm tùy hỷ công đức xây dựng tu bổ lại chùa, tạo tượng, đúc chuông vun bồi cội phúc cho bản thân, gia đình, đoàn thể, Đạo Pháp và dân tộc.

Nguyện đem công đức này, hồi hướng quốc gia hưng thịnh phú cường, cửu huyền thất tổ đồng sinh Phật Quốc. Nguyện cho đại Phật sự này sớm được thành tựu Viên mãn.

NAM MÔ CÔNG ĐỨC LÂM BỒ TÁT MA HA TÁT

MỌI SỰ ĐÓNG GÓP XIN LIÊN HỆ:
Trụ Trì : Thích Đàm Chung
Chùa Đại Phẩm – Xã Đại Yên – H.Chương Mỹ – Hà Nội.
Điện thoại: 0986.249.009

Chủ tài khoản: Nguyễn Tiến Long ĐT: 0983.297.998.
Số Tài Khoản: 03301010248189
Ngân hàng CP Hàng Hải HN (MSB)

Thông tin trên đây được đăng từ ý kiến của quý thầy Đàm Chung

THƯ NGỎ MỜI ĐÓNG GÓP XÂY DỰNG TRÙNG TU CHÙA VŨ HẠ – AN VŨ, QUỲNH PHỤ, THÁI BÌNH, VIỆT NAM

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

TỈNH HỘI PHẬT GIÁO TỈNH THÁI BÌNH

THƯ KÊU GỌI CÔNG ĐỨC

Chùa Vũ Hạ, An Vũ, Quỳnh Phụ ,Thái Bình

Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật

Nam mô Hộ Pháp Chư Thiên Bồ Tát

­­­­­­­­

Kính Bạch chư Tôn đức,

Kính thưa quý Phật tử gần xa!

Chúng tôi từng nghe:

“Chánh pháp lưu truyền, hẳn phải nhờ sự đảm đương của bốn chúng.

Thiền môn hưng thịnh, điều trông cậy vào người thí chủ phát tâm”.

Trong giữ gìn, ngoài ủng hộ, công đức hoằng pháp, hộ pháp không phải nhỏ vậy.

Ngôi chùa Bái – Báo Ân Tự là một trong những ngôi chùa cổ của tỉnh Thái Bình, được kiến tạo vào thế kỷ 15, đã qua 4 đời sư Tổ trụ xứ và hoằng pháp. Nhị vị HT. Thích Thanh Tước và Thích Huệ Lương đã từng là Chánh giám ban Hòa thượng của 3 phủ: Long Hưng, Thiên Trường, Kiến An.

Ngôi chùa lúc bấy giờ được tạo lập với kiến trúc Phật giáo Việt nam hòa quyện văn hóa dân tộc đã toát lên nét đẹp thanh thoát nhưng rất gần gũi. Không gian tâm linh này gồm: tòa thượng điện, trung điện và tiền đường, nhà Tổ, khu Tăng xá với 50 gian dành cho chư Sư an cư kiết hạ, nghiên cứu và biên dịch kinh sách. Trong chánh điện là ngôi Tam bảo rất trang nghiêm. Vị trí tôn quý này được thiết trí theo thứ bậc: trên cao là 3 ngôi Phật Tam thế, kế dưới là tôn tượng Phật A Di Đà, tiếp đến là tôn tượng Trúc Lâm Tam Tổ, cùng với tượng Hộ pháp uy nghi…

Trong kháng chiến chống Pháp, chùa còn là nơi thành lập chi bộ Đảng Việt Minh, nuôi giấu cán bộ hoạt động cách mạng. Năm 1948-1949 chùa mở trường học Nguyễn Bỉnh Khiêm để nâng cao dân trí và đào tạo nguồn nhân lực. Từ đó, đã hun đúc nhiều nhân sĩ yêu nước đóng góp cho Tổ quốc. Và các nhà sư yêu nước đã về chùa thành lập Hội Phật giáo cứu quốc góp phần cho cuộc cách mạng thành công. Tiếc thay sau đó chùa lại bị thực dân Pháp san bằng để lập vành đai trắng.

Thể theo nguyện vọng của Tăng Ni, Phật tử, chúng tôi phát nguyện đại trùng tu ngôi Tam Bảo chùa Bái. Năm 2009, được UBND tỉnh Thái Bình cấp đất cho làng tái tạo lại ngôi chùa Bái trên khuôn viên liền kề đền thờ Đức Thánh Trần (theo Công văn số 1981/UBND-NN ngày 08-10-2009). Việc làm trọng đại này hẳn phải nhờ vào hằng tâm, hằng sản của quý Phật tử xa gần đóng góp.

Thật là: “Công đức mở mang Tam Bảo, nên tướng hảo được trang nghiêm.

Phước báo trùng tu Phật điện, mà quả lành càng tăng trưởng”.

Lấy đây làm cầu bến của lục độ hạnh tu, làm đuốc tuệ cho bốn loài tiến bước. Công đức thù thắng này: “Cây cỏ vô tri chép ghi chẳng sót, lòng người hữu cảm nhắc mãi nào quên”.

Hơn nữa, chùa đang chuẩn bị mọi điều kiện tiến tới thành lập Trung tâm nuôi dạy người khuyết tật nằm trong chính khuôn viên này, mở rộng vòng tay nhân ái nuôi dạy cho 45 cháu trẻ mồ côi khuyết tật, tàn phế bởi chất độc da cam và chăm lo 5 cụ già cô đơn. Hội Chữ thập đỏ và Mặt trận Tổ quốc huyện Quỳnh Phụ trợ duyên, Công ty An Phúc nuôi dạy người khuyết tật thành phố Hồ Chí Minh do giám đốc Trần Hữu Quang cộng tác giúp đỡ.

Để cảm thông việc làm công đức, chúng tôi trân trọng gởi lời cáo bạch này đến các vị mạnh thường quân, các nhà hảo tâm và quý Phật tử, Đạo hữu xa gần. Chư vị tùy hỷ phát tâm ủng hộ, quan tâm trợ duyên tịnh tài và tịnh vật giúp cho Phật sự tái tạo ngôi chùa Bái sớm được viên thành, để có nơi tu học cho phật tử thập phương. Công lao đóng góp của quý vị sẽ được chư Phật, Bồ tát, thiện thần mười phương ngợi ca, chứng minh công đức.

“Sửa chùa, tạo tượng là việc làm cho Phạm vũ được trang nghiêm

Xây tháp, đúc chuông là ruộng phước điền cho người chung hưởng.”

Chúng tôi chấp tay nguyện cầu Tam bảo gia hộ chư quý vị luôn được hạnh phúc, an vui, tỉnh thức trong ánh hào quang của chư Phật !

Mọi sự trợ duyên tịnh tài và vật liêu xin liên hệ:

Chùa Vũ Hạ, An Vũ, Quỳnh Phụ, Thái Bình

Số tài khoản : 3406205018931, Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam, Chi nhánh Tư Môi, Thái Bình – Nguyễn Thị Miền ( PD – Thích Nữ Thiện Tâm, Số chứng minh: 152043468),

Điện thoại : 036-393-5161, DĐ: 01685.138.809 – Email : info@chuadenvuha.com.

Websites : chuadenvuha.com

NAM MÔ CÔNG ĐỨC LÂM BỒ TÁT MA HA TÁT

Kính cáo bạch,

Trụ trì Chùa Vũ Hạ

Thích Nữ Thiện Tâm

Dưới đây là một vài hình ảnh

Thông tin được đăng bởi Thanh Tịnh Lưu Ly dưới sự cho phép của quý chùa Vũ Hạ

KÍNH MỜI ĐÓNG GÓP KINH PHÍ XÂY DỰNG KHU VƯỜN QUÁN THẾ ÂM 88 ỨNG HÓA THÂN

NAM MÔ ĐẠI BI QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT

Hiện nay, tại chùa Tây Thiên (địa chỉ: Ấp Gia Tỵ – Xã Suối Cao – Huyện Xuân Lộc – Tỉnh Đồng Nai) đang có dự án xây dựng Vườn Quán Thế Âm, theo như dự án thì xung quanh vườn Quán Thế Âm dự kiến sẽ bố trí 88 bức tượng về 88 ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Một vài hình ảnh về dự án:

Hiện tại thì chùa đang triển khai dự án, nếu Đạo hữu nào có thể phát tâm cúng dường tượng Phật [là tượng ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, chiều cao 5 mét] thì vui lòng liên hệ

Thầy Thích Từ Linh – Trụ trì chùa Tây Thiên
Email: thichtulinh@chuataythien.vn hoặc thichtulinh@yahoo.com

Hoặc đến trực tiếp chùa tại địa chỉ: Chùa Tây Thiên – Ấp Gia Tỵ Xã Suối Cao Huyện Xuân Lộc Tỉnh Đồng Nai.

Xem thông tin dự án vườn Quán Thế Âm tại liên kết sau

http://chuataythien.vn/ad-86554-660/Vuon-Quan-The-Am.aspx

Thông báo tặng sách TÂM AN CẢNH SẼ AN – TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH

 

Được sự đồng ý của tác giả, Cư sĩ Diệu Nhung và các cư sĩ khác hùn phước ấn tống và gửi tặng 1000 sách TÂM AN CẢNH SẼ AN – TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH (Thực tập tâm bình an), cho các đối tượng sau đây:

1. Địa chỉ nhận sách chỉ trong phạm vi nước Việt Nam.

2. Các tu sĩ Phật giáo không phân biệt tông phái.

3. Các cư sĩ đang nghiên cứu và thực tập Phật giáo.

4. Các cư sĩ khác.

Xin vui lòng gửi thư yêu cầu nhận sách tặng đến địa chỉ email sau đây:

damlinh.that@gmail.com

Trong thư, vui lòng ghi rõ:

Thư yêu cầu nhận sách TÂM AN CẢNH SẼ AN – TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH

Họ tên (ghi đầy đủ có dấu tiếng Việt):

Địa chỉ: (ghi đầy đủ số nhà, tên đường, tên phường, tên quận, tên thành phố hay tỉnh thành)

Số điện thoại:

Địa chỉ email (nếu có):

Số lượng (tối đa 35 cuốn):

Thư yêu cầu gửi sách vui lòng gửi trước ngày 31/01/2013. Sách sẽ được gửi đi bắt đầu từ ngày 01/12/2012.

Do số lượng có hạn nên sách được gửi đi theo thứ tự ưu tiên đối tượng được ghi ở trên. Sách sẽ được gửi qua đường bưu điện theo thông tin địa chỉ Quí Vị cung cấp.

Chân thành cám ơn Quí Vị đã dành chút ít thời gian đọc thông báo này.

Kính chúc Quí Vị an lạc và thảnh thơi.

Xin hồi hướng công đức này đến cha mẹ hiện tại và cha mẹ mười phương, chúng sinh hiện tại và chúng sinh mười phương.

Cư sĩ Diệu Nhung

Đàm Linh Thất

Sống Sâu Sắc Trong Hiện Tại

Tiếp Xúc Với Thực Tại Cùng Tột

Sống Dễ Thương Với Con Tim

Tự Thắp Đuốc Lên Mà Đi

Xem thêm tại: http://sachminhthanh.wordpress.com/2012/07/30/thong-bao-tang-sach-tam-an-canh-se-an-tam-binh-the-gioi-binh/

Bài viết này được Thanh Tịnh Lưu Ly đăng tải dưới sự cho phép của người cúng dường thông qua facebook

Tiểu sử Trưởng lão HT.Thích Minh Châu (1918-2012)

Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam là đệ tử của Cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng Thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); Nguyên quán làng Kim Khê, Xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

TRƯỞNG LÃO HOÀ THƯỢNG THÍCH MINH CHÂU (1918-2012)

– Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam
– Nguyên Đại biểu Quốc hội khóa VII, VIII, IX và X
– Huân chương Hồ Chí Minh
– Huân chương Độc lập hạng nhì
– Huân chương Đại Đoàn kết
– Nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN
– Nguyên Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký HĐTS GHPGVN
– Nguyên Tổng vụ trưởng Tổng vụ Giáo dục GHPGVNTN
– Nguyên Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh
– Nguyên Viện trưởng sáng lập Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam – Chủ tịch Hội đồng phiên dịch Đại Tạng kinh Việt Nam
– Nguyên Hiệu trưởng Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, Cơ sở I, chùa Quán sứ, Hà Nội
– Nguyên Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Tp. HCM
– Trú trì Tổ Đình Tường Vân, thành phố Huế, Viện chủ Thiền viện Vạn Hạnh, Tp. Hồ Chí Minh.

A. Thân thế

Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam là đệ tử của Cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng Thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); Nguyên quán làng Kim Khê, Xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng Giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7), nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé. Vì vậy, Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm.

Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng Cao đẳng Tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ Tú tài Toàn phần tại trường Khải Định – Huế (nay là trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký tòa Khâm sứ, tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm làm việc tại đây, Hòa thượng thấy nhiều bất công trong khâu xét xử, người dân bị xử ép oan sai nên đã xin thôi việc.

B. Thời kỳ tìm hiểu giáo lý đạo Phật và xuất gia học Đạo

– Tìm hiểu giáo lý đạo Phật

Năm 1932, Hội An Nam Phật học ra đời, phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung nở rộ. Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám là nhà trí thức yêu nước cũng là một Phật tử được bầu làm Hội trưởng kiêm Chủ bút tạp chí Viên Âm. Phong trào học Phật do Bác sĩ tổ chức có nhiều trí thức yêu nước tham gia như: Ngô Điền, Phạm Hữu Bình, Võ Đình Cường…

Hòa thượng cùng em là Đinh Văn Vinh đến với phong trào học Phật từ năm 1936 do Bác sĩ Lê Đình Thám giảng và đảm nhiệm chức Chánh Thư ký của Hội. Kể từ đó, Hòa thượng gắn liền với Hội và là hạt nhân nòng cốt phát động phong trào yêu nước chống Pháp và phát động thanh niên tham gia học Phật. Hòa thượng là người đi đầu trong các phong trào này.

Lúc bấy giờ, trong tư cách là một Phật tử, bên cạnh cụ Hội trưởng Tâm Minh Lê Đình Thám, Hòa thượng đã hoạt động tích cực về nhiều mặt, giúp phát triển Phật sự của 17 Tỉnh hội Phật giáo miền Trung.

Trong phong trào Thanh niên nghiên cứu đạo Phật, Hòa thượng là một trong những người sáng lập Đoàn Thanh niên Phật học Đức dục và Gia đình Phật hóa phổ (tên cũ của Tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam sau này). Trong công cuộc chấn hưng Phật giáo từ Cố đô Huế đến các tỉnh Trung bộ, ngay từ buổi đầu Hòa thượng đã có nhiều cống hiến đáng kể như vận động một số Phật tử Hội viên của Hội quyên góp, bảo trợ cho Trường Phật học Báo Quốc, Tòng lâm Kim Sơn; lúc nạn đói dưới thời kỳ Nhật chiếm đóng, Ngài đã giúp sơ tán Học tăng vào Nam bộ và gởi gắm các nơi khác có điều kiện hơn…

– Xuất gia tu học

Trong thời gian làm việc ở Hội quán, Hòa thượng đã học hỏi và thâm hiểu giáo lý Đại thừa từ Bác sĩ Lê Đình Thám cùng Quý vị Tôn túc trong Sơn môn Thừa thiên Huế; Thời gian này, Ngài đã vào ở hẳn trong chùa Tường Vân và thực tập nếp sống Thiền môn như điệu chúng trong chùa. Cũng từ đó, Hòa thượng quyết chí xin xuất gia.

Năm 1946, Ngài đầu sư với Hòa thượng húy thượng Trừng hạ Thông, tự Chơn Thường hiệu Tịnh Khiết (Đức Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN) tại Tổ đình Tường Vân, thuộc làng Hạ I, xã Thủy Xuân, thành phố Huế và được Bổn sư ban cho pháp danh là Tâm Trí. Trải qua những tháng ngày hầu Thầy và chấp tác nặng nhọc tại Tổ đình cũng như việc Hội, Hòa thượng không bao giờ trể nãi. Người lúc ấy vừa là giảng sư, vừa là chú Điệu đang tập sự thực hành nếp sống Thiền môn. Công đức đã đầy đủ, năm 1949 (Kỷ Sửu) Hòa thượng được Bổn sư cho phép thọ Cụ túc giới tại giới đàn Hộ Quốc chùa Báo Quốc do chính Bổn sư làm Đàn đầu Hòa thượng. Trong Đại giới đàn này, Hòa thượng được Hội đồng Thập sư đặc cách cho thọ Tam Đàn cụ túc và Hòa thượng Bổn sư ban cho pháp tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung. Sau khi đã nhập vào hàng Chúng trung tôn, Hòa thượng vẫn không ngừng sinh hoạt với Hội Phật học Trung phần, chuyên cần diễn giảng Phật pháp khắp các chùa Hội, hướng dẫn các thanh, thiếu niên của Gia đình Phật tử, đóng góp bài viết cho tạp chí Viên Âm, Từ Quang, Liên Hoa,… Chủ bút tạp chí Tư Tưởng Vạn Hạnh. Năm 1951, khi Hội thành lập trường Trung học Bồ Đề đầu tiên ở Huế thì Hòa thượng được mời giữ chức Hiệu trưởng.

Trong Hội nghị thống nhất Phật giáo Việt Nam ba miền được tổ chức tại chùa Từ Đàm năm 1951, Hòa thượng được cử là Đại biểu tham dự chính thức.

C. Xuất dương du học

Trong quá trình nghiên cứu Kinh Luật Luận Hán tạng, Hòa thượng thấy cách phiên âm các từ ngữ Pali, Sanskrit mỗi người mỗi khác, khiến bản văn trở nên khó hiểu. Từ đó, Hòa thượng xin phép Bổn sư và Hội Phật học Trung phần cho phép mình xuất dương tu học tại Sri-Lanka và Ấn Độ về Kinh Luật Luận Pali và Sanskrit, nguyện sau này về nước tiếp tục phiên dịch kinh điển làm phong phú kho tàng Tam tạng nước nhà.

Năm 1952, được sự chấp thuận của Giáo hội và Hòa thượng Bổn sư, Hòa thượng xuất dương du học tại Sri-Lanka, học Pali và anh văn tại Colombo. Năm 1955, Hòa thượng được trường Đại học Tích lan tặng bằng Pháp sư (Saddammcariya). Sau đó, Hòa thượng sang Ấn Độ và theo học tại Nava Nalanda Mahavihara thuộc Đại học Bihar (Ấn Độ). Trong thời gian du học tại đây năm 1957 Hòa thượng đã gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân chuyến thăm Ấn Độ của Người.

Năm 1958, Hòa thượng liên tiếp đỗ các văn bằng cử nhân Pali và Anh văn, đặc biệt lại đỗ Thủ khoa M.A (Cao học) về Pali và Abhidhamma trên một số đông thí sinh Ấn Độ và nước ngoài đang theo học cùng khóa với Hòa thượng. Với luận án: “So sánh tập Pali Trung bộ kinh với tập Trung A hàm chữ Hán”, (The Chinaese Madhyama gama and The Pali Majjhima Nikaya), tháng 09 năm 1961, Hòa thượng là người Việt Nam đầu tiên đỗ Tiến sĩ Phật học, Văn học Pali tại Ấn Độ, đích thân Tổng thống Ấn Độ thời ấy đứng ra trao văn bằng Danh dự và khen ngợi không ngớt về luận văn này. Năm 1962-1963, Hòa thượng được Đại học Bihar (Ấn Độ) mời ở lại giảng dạy tại đây. Trước khi về nước, Hòa thượng đã viết nhiều tác phẩm bằng tiếng Anh như: “Huyền Trang nhà chiêm bái và học giả”; “So sánh tập Pali Milinda-Pađha với tập Na tiên Tỷ kheo chữ Hán”; “Pháp Hiển nhà chiêm bái khiêm tốn”. Năm 1964, Hòa thượng trở về nước tiếp tục trước tác và dịch thuật nhiều tác phẩm có giá trị cho hàng Xuất gia và tại gia tu học.

D. Thời kỳ về nước hành đạo

I. Công tác hoằng pháp

Tháng Tư năm 1964 sau khi trở về nước, Hòa thượng đã đem khả năng của mình để ứng dụng vào Phật sự như phiên dịch kinh tạng, mở trường Đại học Vạn Hạnh v.v.. ngõ hầu báo đáp thâm ân Phật tổ. Vì thế, Hòa thượng đã tuần tự được mời giữ các chức vụ: Phó Viện trưởng Viện Cao đẳng Phật học Sài Gòn (1964-1965), Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Văn hóa và Giáo dục (GHPGVNTN 1966-1975).

Năm 1975-1976…, sau khi nước nhà đã thống nhất, Hòa thượng đã bàn giao Viện Đại học Vạn Hạnh cho Bộ Giáo dục quản lý. Sau đó, Hòa thượng trở về cơ sở II ở Phú Nhuận thành lập Phật học viện Vạn Hạnh, nơi đây Hòa thượng đã tập trung vào việc tiếp tục phiên dịch toàn bộ kinh tạng Pali sang Việt ngữ. Ngoài ra, Hòa thượng cũng dành nhiều thời giờ để nhiếp hóa đồ chúng và dạy Phật pháp cho tín đồ. Và cũng từ cơ sở này, lần đầu tiên sau ngày thống nhất đất nước, Hòa thượng mở lớp dạy Phật pháp cho Phật tử sau giờ tan sở và đề xuất với Thành hội pgi thành phố Hồ Chí Minh giảng pháp vào sáng chủ nhật hàng tuần cho Tăng Ni, Phật tử. Các buổi giảng đầu tiên là ở chùa Ấn Quang, Xá Lợi với các ngài Đôn Hậu, Thiện Châu… Hòa thượng cũng tham gia thuyết giảng. Từ đó, phong trào học Phật và nghe giảng pháp sáng chủ nhật hàng tuần được lan rộng.

– Vận động thống nhất Phật giáo

Năm 1980, Hòa thượng cùng chư tôn Hòa thượng Thích Trí Thủ, Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Hòa Thượng Thích Thiện Hào, Hòa thượng Thích Thiện Châu, Hòa thượng Thích Từ Hạnh, Hòa thượng Thích Hiển Pháp cùng với các cư sĩ Nguyễn Hữu Thiện, Nguyễn Văn Chế, Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm ở phía Nam; chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa ở phía Bắc thành lập Ban vận động thống nhất Phật giáo nước nhà. Hòa thượng làm Chánh Thư ký Ban Vận động. Đến năm 1981, GHPGVN được thành lập, Hòa thượng được Đại hội suy cử giữ chức Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký GHPGVN liên tiếp ba nhiệm kỳ I, II và III (1981-1997).

– Đại biểu Quốc hội

Với uy tín của mình trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh, nên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã giới thiệu Hòa thượng ra ứng cử Đại biểu Quốc hội tại đơn vị thành phố HCM. Từ tháng 5 năm 1981-2002, Hòa thượng là Đại biểu Quốc hội 4 khóa liền (từ khoá VII đến khoá X), và cũng trong thời gian này Hòa thượng được bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Xã hội Tp. HCM.

Năm 1989, Hòa thượng kiến nghị với Giáo hội xin phép Nhà nước cho phép thành lập Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam. Khi Viện Nghiên cứu được thành lập, Hòa thượng được Giáo hội cử làm Viện trưởng. Hai năm sau, 1991 Hòa thượng thành lập Hội đồng Chỉ đạo phiên dịch và Ấn hành Đại tạng kinh Việt Nam do chính Ngài làm Chủ tịch. Từ đó, Đại tạng kinh Việt Nam ra đời.

Tháng 11 năm 1997, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc Nhiệm kỳ IV (1997-2002), Đại hội đã suy tôn Hòa thượng vào Thành viên Hội đồng Chứng minh và suy cử chức vụ Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN liên tiếp hai nhiệm kỳ (1997-2007).

Tháng 12 năm 2007, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc Nhiệm kỳ VI (2007-2012) toàn thể Đại hội đã suy tôn Hòa thượng lên ngôi vị Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

II. Công trình biên soạn và phiên dịch

Mặc dù bận rộn nhiều công việc cho Giáo hội, cho Quốc hội, cho việc giảng dạy, nhưng trọng tâm chính vẫn là dịch kinh và giảng kinh. Từ khi về nước cho đến nay, tác phẩm của Ngài ngày càng phong phú. Sau đây là những tác phẩm còn để lại:

✽ Dịch kinh tạng Pali:

1. Trường Bộ kinh (2 tập)
2. Trung Bộ kinh (3 tập)
3. Tương Ưng bộ kinh (5 tập)
4. Tăng Chi bộ kinh (5 tập)
5. Tiểu bộ kinh: gồm các tập sau
a. Pháp cú (Kinh Lời vàng)
b. Kinh Phật tự thuyết
c. Kinh Phật thuyết như vầy
d. Kinh Tập
e. Trưởng lão Tăng kệ
g. Trưởng lão Ni kệ
h. Bổn sanh (2 tập)

✽ Dịch từ Abhidhamma:

Thắng pháp tập yếu luận (Abhidhamma Atthasangaha)

✽ Sách viết bằng tiếng Anh:

1. Hsuan T’sang, The Pilgrim and Scholar (Huyền Trang nhà Chiêm bái và học giả – NS Trí Hải dịch ra Việt văn)
2. Fa-Hsien, The Unassuming Pilgrim (Pháp Hiển nhà Chiêm bái khiêm tốn – NS Trí Hải dịch ra Việt văn)
3. Milindapannha And Ngasenabhikhustra – A comparative study (Cư sĩ Nguyên Tâm – Trần Phương Lan dịch ra Việt văn)
4. The Chinaese Madhyama gama and The Pli Majjhima Nikaya (A comparative study) – Luận án Tiến sĩ Phật học (NS Trí Hải dịch ra Việt văn)
5. Some Teachings Of Lord Buddha On Peace, Harmony And Humadignity.

✽ Sách viết bằng tiếng Việt:

1. Phật pháp (đồng tác giả)
2. Đường về xứ Phật (đồng tác giả)
3. Những ngày và những lời dạy cuối cùng của đức Phật
4. Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa (dịch)
5. Sách dạy Pali
6. Dàn bài Kinh Trung bộ (chưa in)
7. Toát yếu Kinh Trường bộ (chưa in)
8. Toát yếu Kinh Trung bộ (chưa in)
9. Chữ Hiếu trong đạo Phật (đồng tác giả)
10. Hành thiền
11. Lịch sử đức Phật Thích ca
12. Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi
13. Chánh pháp và hạnh phúc
14. Đạo đức Phật giáo và hạnh phúc con người (2002)
15. Những mẫu chuyện đạo (2004)
16. Đức Phật nhà đại giáo dục (2004)
17. Đức Phật của chúng ta (2005)
18. Tâm Từ mở ra, khổ đau khép lại (2006)
19. Những gì đức Phật đã dạy (2007)
20. Hiểu và hành Chánh pháp (2008)
21. Chiến thắng ác ma (2009)

III. Công tác xây dựng cơ sở vật chất và giáo dục

Ngay khi về nước năm 1964, Hòa thượng Trí Thủ, Hòa thượng Nhất Hạnh cùng Hòa thượng đã thừa lệnh Giáo hội, mượn chùa Pháp Hội thành lập Viện Cao đẳng Phật học Sài gòn do Hòa thượng Trí Thủ làm Viện trưởng, Hòa thượng được Giáo hội cử giữ chức Phó Viện trưởng Điều hành.

Năm 1965, được sự cho phép của Bộ Giáo dục, Trường mở thêm Phân khoa Văn học và Khoa học Nhân văn (Văn khoa), Hòa thượng được cử giữ chức Khoa trưởng, sau đó mời Hòa thượng Thiên Ân đảm trách. Lúc này cũng phải tạm mượn chùa Xá Lợi làm nơi giảng dạy.

Cuối năm 1965 Giáo hội quyết định xin phép đổi tên Viện Cao đẳng Phật học thành Viện Đại học Vạn Hạnh và xây dựng cơ sở mới tại số 222 Trương Minh Giảng (nay là Lê Văn Sĩ). Hòa thượng được Giáo hội chỉ định giữ chức Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh kiêm Khoa trưởng Phân khoa Phật học. Tại cơ sở mới, Hòa thượng đã mở thêm các Phân khoa: Khoa học Xã hội, Giáo dục. Hòa thượng là Khoa trưởng các Phân Khoa này. Sau đó, Hòa thượng mời các Giáo sư Tôn Thất Thiện, Bùi Tường Huân làm Khoa trưởng và Tiến sĩ Thích Nguyên Hồng làm Khoa trưởng Phân khoa Giáo dục. Với cương vị Viện trưởng, Hòa thượng đã chỉ đạo mở thêm Trung tâm ngoại ngữ trong khuôn viên Đại học Vạn Hạnh.

Năm 1972, Hội đồng Viện quyết định mua cơ sở ở đường Võ Di Nguy (nay là đường Nguyễn Kiệm) để mở thêm Phân khoa Khoa học ứng dụng. Hòa thượng về đây đảm nhiệm Khoa trưởng. Tại đây năm 1974, Hòa thượng chủ trì Lễ kỷ niệm 10 năm thành lập Viện Đại học Vạn Hạnh (1964-1974) với sự tham dự của chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Giáo sư trong Ban Giáo sư của Viện và hơn 10 ngàn sinh viên tham dự.

Cũng chính tại cơ sở này, năm 1984 Hòa thượng đã mở trường Cao cấp Phật học (nay là Học viện PGVN tại Tp. HCM) do Hòa thượng làm Hiệu trưởng, Ngài cũng làm Đàn đầu Hòa thượng truyền giới Cụ túc cho 60 Tăng Ni sinh Khóa I này.

Năm 1981, Giáo hội mở trường Cao cấp Phật học Việt Nam cở sở I tại chùa Quán Sứ, Hòa thượng được mời làm Hiệu trưởng (nay là Học viện PGVN tại Hà Nội).

Tại Học viện PGVN tại Tp. HCM, Hòa thượng đã lần lượt tổ chức tuyển sinh và đào tạo được 5 khóa Cử nhân Phật học. Các khóa Tăng Ni sinh này đã đáp ứng được nhân sự phục vụ Giáo hội.

Ngày 20-10-1997, Hòa thượng chủ trì Lễ khởi công xây dựng cơ sở mới Học viện PGVN tại Tp. HCM. Công trình được tiến hành gần 2 năm, đến ngày 23-4-1999 đã hoàn thành và Lễ Khánh thành được tổ chức.

IV. Nhiếp hóa đồ chúng

Với nhiều Phật sự của Giáo hội, giáo dục Tăng Ni, phiên dịch kinh tạng và trước tác sách vở, nhưng Hòa thượng vẫn luôn nhớ về nguồn cội – nơi mình đã xuất gia học đạo. Vì thế, sau khi Hòa thượng Vĩnh Thừa kế vị đức Tăng thống, trú trì Tổ đình Tường Vân viên tịch, Hòa thượng được Giáo hội và toàn thể chư tôn túc, Tăng Ni, môn phái Tổ đình Tường Vân suy tôn lên ngôi vị Trú trì Tổ đình năm 1984 dưới sự chứng minh của chư tôn Trưởng lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu, Thích Mật Hiển, Thích Thiện Siêu… Trong cương vị Trú trì, Hòa thượng đã nhiếp hóa đồ chúng, tổ chức giới đàn Sa-di phương trượng cho Tăng chúng trong nội phái và chỉ đạo xây dựng, sửa sang một số công trình: khu bảo tháp chư Tổ và Bổn sư…

Tại Thiền viện Vạn Hạnh năm 2001, Hòa thượng đã cho đại trùng tu ngôi chánh điện, đến tháng 10 năm 2004 thì hoàn tất. Tháng 09 năm 2005, Ngài cho xây dựng mới ngôi Tăng xá và đến tháng 10 năm 2006 tổ chức lễ khánh tạ.

V. Công tác đối ngoại

Với kiến thức uyên thâm và khả năng ngoại điển xuất sắc, Hòa thượng còn được Giáo hội giao phó nhiều trọng trách trong công tác đối ngoại.

– Tháng 6-1965, Hòa thượng viếng thăm và thuyết giảng tại Đại học Kamazawa, Taisho – Nhật Bản.

– Năm 1967, Hòa thượng tham dự Hội thảo Giáo dục tại Đại học Yale – Hoa Kỳ.

– Tháng 6-1968, Hòa thượng tham dự Đại hội giáo dục Liên Viện trưởng Thế giới tại Hàn Quốc. Cuối năm 1968 Hòa thượng đại diện cho các trường Đại học miền Nam Việt Nam tham dự Đại hội Giáo dục Quốc tế tại Mễ-tây-cơ.

Hòa thượng từng tham gia rất nhiều Hội nghị quốc tế, đặc biệt trong Đại hội Phật giáo Châu Á vì hòa bình (ABCP) lần thứ V 1982 tại Ulanbator (Mông Cổ) Hòa thượng đã được bầu giữ chức vụ Ủy viên Ban Chấp hành (1982-1985) của Hội và Phó Chủ tịch hội này.

– Tháng 6-1983 Hòa thượng tham dự Hội nghị Hòa bình Thế giới chống vũ khí hạt nhân tổ chức tại Praha, Tiệp Khắc.

– Tháng 5-1984 Hòa thượng làm trưởng đoàn tham dự Hội nghị Phật tử Châu Á vì hòa bình tại New Dehli Ấn Độ, trong Hội nghị này Ngài được tiếp kiến Tổng thống Ấn Độ Zuil Singh.

– Tháng 10-1984, Hòa thượng dẫn đầu phái đoàn GHPGVN tham dự Hội nghị Phật giáo thế giới với chủ đề “Đạo Phật và các nền văn hóa Dân tộc” tại New Dehli-Ấn Độ.

– Tháng 2-1985, Hòa thượng tham dự Hội nghị bàn tròn với chủ đề “Các mối nguy hiểm đối với sự sống thiêng liêng của chúng ta” tại Moscow (Nga).

– Tháng 11-1985, Hòa thượng tham dự Hội nghị ABCP lần thứ VI tại Hà Nội.

– Tháng 5-1986, Hòa thượng tham dự Hội nghị Quốc tế bàn tròn tại Moscow (Nga).

– Tháng 2-1987, Hòa thượng dẫn đầu phái đoàn PGVN tham dự Quốc dân Đại hội hòa bình Quốc tế tại Liên Xô.

– Tháng 2-1986, Người làm phó trưởng đoàn tham dự Đại hội VII ABCP tại Viên Chăn (Lào), Hòa thượng được mời giữ lại chức Phó Chủ tịch ABCP và Ủy viên Hội đồng Chấp hành ABCP Quốc tế, Hòa thượng cũng được mời làm Chủ tịch Trung tâm Quốc gia ABCP Việt Nam.

– Tháng 1-1989, Hòa thượng dự Hội nghị Tôn giáo và hòa bình tổ chức tại Đại học Monash Úc.

– Tháng 8-1989, Hòa thượng làm trưởng phái đoàn PGVN sang dự Hội thảo Đạo Phật và sự lãnh đạo về hòa bình tại Ulanbator (Mông Cổ).

– Tháng 10-1989, Hòa thượng dẫn phái đoàn Phật giáo Việt Nam, sang thăm hữu nghị Phật giáo Nhật Bản tại Thủ đô Tokyo.

– Tháng 9-1990, Hòa thượng làm trưởng đoàn tham dự Hội nghị Quốc tế lần thứ VIII của Tổ chức ABCP tại Mông Cổ.

– Tháng 10-1990, Hòa thượng làm trưởng đoàn tham dự Hội nghị Tôn giáo và hòa bình tại Bali, miền Nam nước Ý.

– Tháng 10-1991, Hòa thượng dẫn đầu phái đoàn Phật giáo Việt Nam tham dự Hội nghị các Tôn giáo một đại dương hòa bình tại Matla, nước Ý.

– Tháng 11-1991, Hòa thượng làm trưởng đoàn tham dự Hội nghị đạo Phật với sự lãnh đạo cho hòa bình tại Seoul-Hàn Quốc.

– Tháng 11-1992, Hòa thượng làm trưởng đoàn tham dự Hội nghị Quốc tế ABCP tại Thủ đô Colombo – Sri-Lanka.

– Tháng 03-1993, Hòa thượng chủ trì Hội thảo “Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại” tại Tp. HCM.

– Tháng 04-1993, với tư cách Chủ tịch Trung tâm ABCP Việt Nam, Hòa thượng Chủ tọa Hội nghị Quốc tế giải trừ quân bị tại Thủ đô Hà Nội.

– Tháng 10-1993, Người tham dự Hội nghị Tăng-già Quốc tế tại Đài Loan.

– Tháng 3-1994, Hòa thượng cùng Hòa thượng Thiện Siêu dẫn đầu Phái đoàn chiêm bái Phật tích tại Ấn Độ.

– Tháng 9-1994, Hòa thượng tham dự Hội nghị Tăng-già Quốc tế tại Vancouver – Canada.

– Năm 1995, Hòa thượng chủ trì Hội thảo “Giáo dục Phật giáo trong thời hiện đại” tại Tp. HCM.

– Tháng 08-1995, Ngài làm trưởng đoàn phái đoàn sang thăm hữu nghị và chủ trì cuộc Hội thảo Phật giáo tại Paris (Pháp quốc).

– Tháng 05-1996, Hội đồng Đại học Mahachulalongkorn tại Thái Lan (Đại học Hoàng gia Thái) đã trân trọng tặng bằng cấp Tiến sĩ danh dự cho Hòa thượng về công trình Phiên dịch kinh điển và sự nghiệp giáo dục của ngài.

Với những công đức mà Hòa thượng đã đóng góp cho Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội, vào năm 2000, Nhà nước CHXHCN Việt Nam trao tặng Huân chương Độc lập hạng nhì và vào năm 2012, trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

Đúng vào mùa Vu Lan PL. 2556, vào lúc 9h sáng ngày 1 tháng 9 năm 2012 (tức 16-7 âm lịch), Ngài đã nhẹ nhàng xả báo thân tại phương trượng Thiền viện Vạn Hạnh. Trụ thế 95 tuổi năm và 64 hạ lạp.

Cuộc đời của Hòa thượng là một tấm gương sáng về đức trí và giáo dục cho Tăng Ni nhiều thế hệ. Ngài còn là anh cả Sáng lập viên của Tổ chức giáo dục Thanh thiếu niên Gia đình Phật tử Việt Nam. Với tính điềm đạm và đức nhẫn nại của một bậc thực học, chơn tu khả kính và với sự nghiệp to lớn về giáo dục, phiên dịch Đại tạng kinh Pali-Việt, Hòa thượng luôn luôn để lại cảm tình đặc biệt trong lòng Phật tử Việt Nam

Những tháng ngày cuối cùng

Những việc cần làm đã làm xong, đã đến lúc gác bút, vào sâu thiền định, sống với hàng đệ tử xuất gia và tại gia thân tín. Năm 2006, Ngài đã lui về hậu liêu an dưỡng tuổi già. Giờ đây, cuộc đời của Hòa thượng như chiếc chiếu trải rộng, không phân biệt hệ phái Nam – Bắc, Đại thừa hay Tiểu thừa. Kinh sách của Hòa thượng không phân biệt, ai muốn hiểu giáo lý cứ đọc – trong “Tiểu” có “Đại”, trong “Đại” có “Tiểu”, đó là Giáo lý Giải thoát mà Ngài đã thuyết giảng hơn 70 năm không biết mệt mõi, như nhạn bay xa, không lưu lại dấu tích.

95 năm hiện diện ở cõi Ta-bà, hơn 70 năm phục vụ cho Đạo pháp và Dân tộc, Hòa thượng đã mở trường trong Đạo và ngoài đời để đào tạo hàng ngàn Tăng Ni cấp Cử nhân Phật học cho Giáo hội; hàng chục ngàn sinh viên có bằng cấp thành đạt cho xã hội.

Hôm nay, mặc dù Hòa thượng đã đi vào cõi Niết-bàn vô tung bất diệt, nhưng gương sáng trí tuệ và tinh thần Giáo dục cho Tăng Ni Phật tử Việt Nam, tinh thần phục vụ Đạo pháp và Dân tộc suốt đời của Ngài vẫn còn mãi mãi với non sông đất nước, với GHPGVN, với Phật tử ba miền Bắc, Trung, Nam, với Tăng Ni trong và ngoài nước, với Tổ đình Tường Vân, với Thiền viện Vạn Hạnh.

Nam mô Tự Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Tam Thế, Xuân Kinh Tường Vân Tổ Đình Trú Trì, Hồ Chí Minh Thị Vạn Hạnh Thiền Viện Khai Sơn, Sung Việt Nam Phật Giáo Giáo Hội, Chứng Minh Hội Đồng, Phó Pháp Chủ, Húy thượng Tâm hạ Trí, Tự Minh Châu, Hiệu Viên Dung Trưởng Lão Hòa Thượng Giác Linh thùy từ chứng giám.

Ban Lễ tang Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu

Danh sách các thành viên Ban Lễ tang Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu – Phó Pháp chủ GHPGVN, Trú trì Tổ đình Tường Vân (TT. Huế), Viện chủ Thiền viện Vạn Hạnh (TP.HCM).

BAN LỄ TANG
TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH MINH CHÂU

– Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam;

– Nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN;

– Nguyên Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký HĐTS;

– Nguyên Trưởng ban Phật giáo Quốc tế TW, Viện Trưởng sáng lập Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam – Chủ tịch Hội đồng Phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam, Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Tp. Hồ Chí Minh;

– Nguyên Hiệu trưởng Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, cơ sở I – chùa Quán Sứ, Hà Nội;

– Nguyên Tổng Vụ trưởng Tổng vụ Giáo dục GHPGVNTN;

– Nguyên Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh – Sài Gòn;

– Nguyên Phó Chủ tịch Hội Phật giáo Châu Á vì hòa bình (ABCP), Chủ tịch Trung tâm ABCP Việt Nam;

– Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa VII, VIII, XI, X;

– Trú trì Tổ đình Tường Vân, Tp. Huế; Viện chủ Thiền viện Vạn Hạnh, Tp. Hồ Chí Minh.

1. Hòa thượng Thích Phổ Tuệ – Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

2. Hòa thượng Thích Trí Tịnh – Phó Pháp chủ, Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN.

3. Hòa thượng Thích Thanh Sam – Phó Pháp chủ, Chánh Thư ký HĐCM GHPGVN.

4. Hòa thượng Dương Nhơn – Phó Pháp chủ, Phó Chủ tịch HĐTS GHPGVN.

5. Hòa thượng Thích Hiển Pháp – Phó Pháp chủ, Phó Chủ tịch HĐTS GHPGVN.

6. Hòa thượng Thích Đức Nghiệp – Phó Thư ký Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

7. Hòa thượng Thích Thiện Bình – Phó Thư ký HĐCM, Ủy viên Kiểm soát Hội đồng Trị sự GHPGVN.

8. Hòa thượng Thích Từ Nhơn – Thành viên Hội đồng Chứng minh, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN.

9. Hòa thượng Thích Chơn Thiện – Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự, Trưởng Ban giáo dục Tăng Ni Trung ương GHPGVN.

10. Hòa thượng Thích Thanh Nhiễu – Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN.

11. Hòa thượng Thích Trí Quảng – Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Trưởng Ban Phật giáo Quốc tế Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Viện Trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam.

12. Hòa thượng Thích Thiện Nhơn – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký HĐTS GHPGVN.

13. Hoà thượng Thích Giác Toàn – Phó Chủ tịch HĐTS, Trưởng Ban Kinh tế Tài chính TW GHPGVN.

14. Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm – Phó Chủ tịch HĐTS, Trưởng ban Hoằng pháp TW GHPGVN.

15. Hòa thượng Thích Đức Phương – Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN.

16. Thượng tọa Thích Quảng Tùng – Phó Chủ tịch HĐTS, Trưởng ban TTXH TW GHPGVN.

17. Hòa thượng Thích Trí Tâm – Thành viên HĐCM, Trưởng Ban Nghi lễ Trung ương GHPGVN.

18. Hòa thượng Thích Thiện Duyên – Thành viên HĐCM, Trưởng Ban HDPT Trung ương GHPGVN.

19. Hòa thượng Thích Trung Hậu – Trưởng Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

20. Hòa thượng Thích Phước Sơn – Phó Viện trưởng Viện NCPH Việt Nam.

21. Bà Nguyễn Thúy Anh – Phó Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội.

22. Ông Hà Văn Núi – Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

23. Ông Dương Quang Hà – Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQVN, Chủ tịch UBMTTQVN Tp. Hồ Chí Minh.

24. Ông Bùi Thanh Hà – Phó Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ.

25. Hòa thượng Thích Chơn Tế – Đại diện Sơn Môn Pháp phái.

26. Thượng tọa Thích Tâm Minh – Trưởng tử.

DANH SÁCH BAN TỔ CHỨC LỄ TANG TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH MINH CHÂU

HT. Thích Minh Châu – Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam; nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN, Trú trì Tổ đình Tường Vân, Tp. Huế; Viện chủ Thiền viện Vạn Hạnh, Tp. Hồ Chí Minh.

DANH SÁCH BAN TỔ CHỨC LỄ TANG

TRƯỞNG LÃO HT. THÍCH MINH CHÂU

– Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam

– Nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN

– Nguyên Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký HĐTS

– Nguyên Trưởng ban Phật giáo Quốc tế TW

– Viện Trưởng sáng lập Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam

– Chủ tịch Hội đồng Phiên dịch Đại tạng Kinh Việt Nam

– Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Tp. Hồ Chí Minh

– Nguyên Hiệu trưởng Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, cơ sở I – chùa Quán Sứ, Hà Nội

– Nguyên Tổng Vụ trưởng Tổng vụ Giáo dục GHPGVNTN

– Nguyên Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh – Sài Gòn

– Nguyên Phó Chủ tịch Hội Phật giáo Châu Á vì hòa bình (ABCP)

– Chủ tịch Trung tâm ABCP Việt Nam; Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa VII, VIII, XI, X

– Trú trì Tổ đình Tường Vân, Tp. Huế; Viện chủ Thiền viện Vạn Hạnh, Tp. Hồ Chí Minh.

I. BAN CHỨNG MINH

Hòa Thượng Thích Phổ Tuệ

Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

Hòa Thượng Thích Thanh Sam

Hòa Thượng Dương Nhơn

II. BAN TỔ CHỨC

Trưởng Ban: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

Phó Ban thường trực : Hòa Thượng Thích Trí Quảng

Phó Ban: Hòa Thượng Thích Thanh Nhiễu

Hòa Thượng Thích Thiện Nhơn

Hòa Thượng Thích Giác Toàn

Hòa Thượng Thích Bảo Nghiêm

Hòa Thượng Thích Quảng Tùng

Hòa Thượng Thích Thiện Pháp

Hòa Thượng Thích Thiện Tánh

Hòa Thượng Thích Gia Quang

Hòa Thượng Đào Như

Hòa Thượng Thích Trung Hậu

Hòa Thượng Thích Huệ Trí

Hòa Thượng Thích Chơn Hương

Thượng tọa Thích Tâm Minh

Bà Nguyễn Thúy Anh – Phó Chủ nhiệm UB CVDXH của Quốc hội

Ông Hà Văn Núi – Phó Chủ tịch UBTW MTTQ Việt Nam

Ông Bùi Thanh Hà – Phó trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ

III. ỦY VIÊN

Hòa Thượng Thích Như Niệm

Hòa Thượng Thích Nhật Quang

Hòa Thượng Thích Thiện Tâm

Hòa Thượng Thích Thanh Hùng

Hòa Thượng Thích Huệ Minh

Thượng Tọa Thích Quảng Hà

Thượng Tọa Thích Thiện Thống

Thượng Tọa Thích Thanh Phong

NT Thích Nữ Ngoạt Liên

NT Thích Nữ Như Ngọc

NT Thích Nữ Tịnh Nguyện

GS Lê Mạnh Thát

Cư sĩ Tống Hồ Cầm

Cư sĩ Trần Tuấn Mẫn

Cư sỉ Phan Ba

Cư sĩ Nguyễn Thắng Nhu

Ông Phạm Kiên Cường – Vụ trưởng VụCTTG của BDVTW

Ông Bùi Hữu Dược – Vụ trưởng Vu Phật giáo Ban Tôn giáo Chính phủ

BAN TỔ CHỨC LỄ TANG

Nguồn Phattuvietnam.net