Giới thiệu về Tạng Luật – Tỳ khưu Indacanda

GIỚI THIỆU

Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đề có liên quan đến cuộc sống và sự sinh hoạt của các thành viên cũng như các công việc của hội chúng, trong đó, chủ yếu đề cập đến các tỳ khưu, một phần dành cho tỳ khưu ni, đồng thời một số vấn đề có thể áp dụng cho hàng tại gia cư sĩ cũng được tìm thấy.

Tạng Luật được chia làm 3 phần chính: Suttavibhaṅga, Khandhaka, và Parivāra.

I. Suttavibhaṅga (Phân Tích Giới Bổn)

Trình bày về giới bổn Pātimokkha của tỳ khưu gồm có 227 điều học và của tỳ khưu ni gồm có 311 điều học. Ý nghĩa của từ “sutta” ở nhóm từ “suttavibhaṅga” có ý nghĩa tương đương như là “sikkhāpada” (điều học, học giới, điều giới, …), nếu xét theo ý nghĩa bao quát có thể gọi là “giới bổn.” Như vậy, Suttavibhaṅga nghĩa là sự phân tích các điều học hoặc là sự phân tích về giới bổn (ở Tạng Kinh, từ “sutta” được dịch là “kinh”, ví dụ như Brahmajālasutta được dịch là Kinh Phạm Võng, v.v…).

Theo truyền thống đang được áp dụng ở Tích Lan và Miến Điện, Suttavibhaṅga được phân làm hai: Pārājikapāḷi và Pācittiyapāḷi. Cách phân chia này có thể do việc chia hai số lượng sách của Suttavibhaṅga và được trình bày như sau:

Pārājikapāḷi: Mở đầu là Chương Verañja giới thiệu việc ngài Sārīputta thỉnh cầu đức Phật quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha; khi ấy đức Phật đang an cư mùa mưa tại xứ Verañjā. Kế đến là các điều học được trình bày theo thứ tự:

1) 4 Pārājika (bất cộng trụ)
2) 13 Saṅghādisesa (tăng tàng)
3) 2 Aniyata (bất định)
4) 30 Nissaggiya Pācittiya (ưng xả đối trị)

Pācittiyapāḷi: trình bày phần còn lại của Suttavibhaṅga:

5) 92 Pācittiya (ưng đối trị)
6) 4 Pāṭidesanīya (ưng phát lộ)
7) 75 Sekhiya (ưng học)
8) 7 Adhikaraṇasamathā Dhammā (các pháp dàn xếp tranh tụng)
9) Bhikkhunīvibhaṅga (Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni).

Truyền thống Thái Lan cũng phân Suttavibhaṅga làm hai, nhưng căn cứ theo nội dung:

– Mahāvibhaṅga (Đại Phân Tích): còn có tên là Bhikkhuvibhaṅga (Phân Tích Giới Tỳ Khưu) vì có đầy đủ phần phân tích 227 giới trong giới bổn Pātimokkha của tỳ khưu từ 4 pārājika cho đến 7 adhikaraṇasamathā dhammā. Bộ này được phân chia làm 2 tập: Tập I gồm 4 pārājika, 13 saṅghādisesa, và 2 aniyata, tập II gồm phần còn lại của giới bổn bắt đầu với 30 nissaggiya pācittiya và kết thúc với lời tụng đọc tổng kết.

– Bhikkhunīvibhaṅga (Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni) chỉ trình bày các điều học quy định dành riêng cho tỳ khưu ni, những điều học quy định chung cần phải xem ở Bhikkhuvibhaṅga (Phân Tích Giới Tỳ Khưu).

II. Khandhaka (Hợp Phần):

Khandhaka gồm các vấn đề có liên quan đã được sắp xếp thành từng chương và được phân làm hai: Mahāvagga (Đại Phẩm) và Cullavagga (Tiểu Phẩm). Chúng tôi tạm dịch Khandhaka là Hợp Phần (khandha có nghĩa là khối, nhóm, uẩn, … và tiếp vĩ ngữ -ka trong trường hợp này có ý nghĩa là thuộc về, có liên quan, …).

– Mahāvagga (Đại Phẩm): gồm 10 chương, mở đầu là sự chứng ngộ đạo quả của đức Phật, kế đến là các nhiệm vụ quan trọng của các tỳ khưu như lễ xuất gia, lễ Uposatha (Bố Tát), việc an cư mùa mưa, lễ Pavāraṇā (Tự Tứ), v.v…

– Cullavagga (Tiểu Phẩm): gồm 12 chương đề cập đến việc hành xử các tỳ khưu phạm tội, giải quyết các sự tranh tụng, việc chia rẽ hội chúng, và các vấn đề khác liên quan đến đời sống xuất gia. Đặc biệt chương 10 đề cập việc xuất gia của tỳ khưu ni và hai chương cuối 11 và 12 nói về hai kỳ kết tập Tam Tạng đầu tiên ở Ấn Độ.

III. Parivāra (Tập Yếu):

phân tích về Giới và Luật theo các tiêu đề và được trình bày dưới dạng vấn đáp, có thể được xem như là cuốn cẩm nang hướng dẫn việc hành xử Luật.

–ooOoo–

.

.

.

TẠNG LUẬT TIẾNG VIỆT

Bản dịch tiếng Việt Tạng Luật của chúng tôi căn cứ vào văn bản Pāli Roman từ CD Budsir IV của trường đại học Mahidol (Thái Lan), được phân thành 5 bộ, có 8 tập:

1. Phân Tích Giới Tỳ Khưu (2 tập)
2. Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni
3. Đại Phẩm (2 tập)
4. Tiểu Phẩm (2 tập)
5. Tập Yếu

1. Phân Tích Giới Tỳ Khưu:

Gồm có hai tập và có thể nói gọn lại là Giới Tỳ Khưu cho dễ nhớ.

Đề cập đến nội dung, chương mở đầu Verañja trình bày về thời điểm quy định điều học cho các tỳ khưu căn cứ vào câu trả lời của đức Phật đối với sự thỉnh cầu của ngài Sārīputta (Xá Lợi Phất) rằng: “Này Sārīputta, ngươi hãy chờ đợi! Này Sārīputta, ngươi hãy chờ đợi! Trong trường hợp này, chỉ có Như Lai mới biết thời điểm.” Và ngài đã xác định về thời điểm đó như sau: “Này Sārīputta, chính bởi vì một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện trong hội chúng này … chính bởi vì hội chúng đạt đến sự đông đảo về số lượng … chính bởi vì hội chúng đạt đến sự lớn mạnh về việc phát triển … chính bởi vì hội chúng đạt đến sự dồi dào về lợi lộc nên một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện trong hội chúng này, nên bậc Đạo Sư quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy.”

Đến các chương kế tiếp, chúng ta biết được rằng mỗi khi điều học được quy định, trước tiên có sự chỉ trích và chê bai về việc làm hay lời nói nào đó của các vị xuất gia, việc chỉ trích và chê bai lan rộng khiến các tỳ khưu nghe được và cuối cùng đến tai đức Phật. Đối tượng vi phạm trong các câu chuyện này có thể là cá nhân hay nhóm tỳ khưu, không hẳn là phàm nhân mà ngay cả một số vị đã chứng được thiền và thần thông như các vị Devadatta với việc chia rẽ hội chúng và Sāgata do say sưa vì uống rượu, một vài trường hợp do các bậc đã chứng Thánh quả như ngài Anuruddha về việc nằm chung chỗ ngụ với người nữ, ngài Cūḷapanthaka về việc giáo huấn các tỳ khưu ni khi mặt trời đã lặn, hoặc ngài Veḷaṭṭhasīsa về việc thọ dụng vật thực đã tích trữ. Về các sự chỉ trích và chê bai, đa số phát xuất từ hàng tại gia có thể là các cư sĩ đã quy y, những người theo ngoại đạo, hoặc quần chúng bình thường, kế đến do các vị đã xuất gia, chỉ một vài trường hợp do phi nhân hạng trên hoặc dưới. Thông thường, đức Phật triệu tập các tỳ khưu lại, xác định vấn đề, khiển trách và giáo huấn, rồi mới quy định điều học. Mỗi lần như vậy, đức Phật luôn khẳng định về mười điều lợi ích của việc làm ấy như sau: “Nhằm sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp những nhân vật ác xấu, nhằm sự lạc trú của các tỳ khưu hiền thiện, nhằm ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại, nhằm sự trừ diệt các lậu hoặc trong tương lai, nhằm đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật.” Có nhiều trường hợp, điều học đã được quy định thêm (anupaññatti), có trường hợp mức độ nghiêm khắc trong việc thực hành càng gia tăng, có trường hợp được giảm nhẹ do nhu cầu cần thiết ví dụ như tỳ khưu bị bệnh có thể thọ thực ở phước xá hơn một lần, hoặc vị tỳ khưu có thể hẹn trước rồi đi chung với tỳ khưu ni ở đoạn đường có nguy hiểm hoặc chung chuyến đò lúc sang sông. Sau phần quy định về điều học, có phần phân tích về từ ngữ và về các trường hợp vi phạm hoặc không vi phạm. Phần này cần xem xét kỹ lưỡng mới có thể hiểu được điều học thêm phần chính xác. Ngoài ra, có phần các câu chuyện dẫn giải ở 4 điều học pārājika và 5 điều học đầu của saṅghādisesa, gồm những sự việc cụ thể giúp cho hiểu rõ hơn về trường hợp vi phạm tội. Khi đọc các câu chuyện này, ta nên liên hệ với phần phân tích ở phía trước để thấy được sự phán quyết của đức Phật. Một điều quan trọng cần lưu ý rằng đối tượng chính của các điều học này là hạng tỳ khưu và tỳ khưu ni đã được tu lên bậc trên bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư, đầu tiên là vị bà-la-môn đã được ngài Sārīputta tế độ do việc bố thí một muỗng thức ăn (Đại Phẩm, chương I, [85]).

*

2. Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni:

Nói gọn hơn cho dễ nhớ là Giới Tỳ Khưu Ni. Tập này trình bày 311 điều học của các tỳ khưu ni được phân chia như sau:

1) 8 Pārājika (bất cộng trụ)
2) 17 Saṅghādisesa (tăng tàng)
3) 30 Nissaggiya Pācittiya (ưng xả đối trị)
4) 166 Pācittiya (ưng đối trị)
5) 8 Pāṭidesanīya (ưng phát lộ)
6) 75 Sekhiya (ưng học)
7) 7 Adhikaraṇasamathā Dhammā (các pháp dàn xếp tranh tụng).

Tuy nhiên, chỉ có những điều học quy định riêng cho tỳ khưu ni (asādhāraṇapaññatti) được trình bày trong tập này, còn những điều quy định chung cho tỳ khưu và tỳ khưu ni (sādhāraṇapaññatti) cần phải xem ở Phân Tích Giới Tỳ Khưu. Ngài Buddhaghosa trong Chú Giải Tạng Luật Samantapāsādikā đã giúp chúng ta xác định những điều học chung này, tuy nhiên thứ tự các điều học trong giới bổn đầy đủ của các tỳ khưu ni được trình bày như thế nào không thấy ngài đề cập đến. Giới bổn đầy đủ của tỳ khưu ni được tìm thấy ở các tài liệu Pāli có tên Bhikkhunīpātimokkha, Ubhato-pātimokkha, Dvemātikāpāḷī, còn được lưu trữ ở các nước có Phật giáo là quốc giáo như Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện.

So sánh giới bổn Pātimokkha của tỳ khưu và tỳ khưu ni, có một số vấn đề đáng được lưu ý như sau:

1) Tỳ khưu ni không có phần giới aniyata (bất định). Tỳ khưu và tỳ khưu ni đều có 30 điều nissaggiya pācittiya (ưng xả đối trị), tuy có số lượng giống nhau nhưng một số điều học lại khác nhau, 75 điều sekhiya (ưng học) và 7 pháp dàn xếp tranh tụng hoàn toàn giống nhau.

2) Đức Phật quy định các điều học cho các tỳ khưu ni thông qua các tỳ khưu. Mỗi khi có sự việc sanh khởi, các tỳ khưu ni đã kể lại sự việc cho các tỳ khưu, rồi các tỳ khưu mới trình lên đức Phật. Khi đức Phật quy định điều học, ngài cũng quy định gián tiếp qua các tỳ khưu: “… Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này …” Cũng nên lưu ý về thể của động từ sử dụng trong lời nói của đức Phật: Động từ “uddissantu” trong trường hợp của các tỳ khưu ni thuộc mệnh lệnh cách, hàm ý sự chỉ thị, sự ra lệnh, nên được dịch là “hãy,” còn “uddisseyyātha” áp dụng cho các tỳ khưu thuộc giả định cách có ý nghĩa khuyên bảo nhẹ nhàng được dịch là “nên;” chúng tôi chưa tìm ra được lý giải về văn phạm cho điểm này, cũng có thể lối nói gián tiếp hay trực tiếp là lý do của sự khác biệt này. Và trong các câu chuyện ở Tạng Luật, dường như chỉ có bà Mahāpajāpati Gotamī là chủ động thưa chuyện cùng đức Phật, còn các tỳ khưu ni chỉ lắng nghe và trả lời mỗi khi đức Phật hỏi đến.

3) Các tỳ khưu ni khi đến với đức Phật đều đứng cho dù nghe Pháp. Điều này được ghi nhận ở các đoạn văn “… rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng ở một bên…” Và khi từ giã đức Phật, chỉ có phần mô tả việc các tỳ khưu ni đảnh lễ đức Phật, hướng vai phải nhiễu quanh và ra đi, không có đoạn “… từ chỗ ngồi đứng dậy…” Riêng đối với các tỳ khưu, vị tỳ khưu ni cần phải xin phép khi ngồi xuống ở phía trước (pācittiya điều 94).

4) Tội quy định cho tỳ khưu thường được giảm nhẹ so với các tỳ khưu ni trong khi cả hai đều thực hiện hành động phạm tội giống nhau. Ví dụ như việc che giấu tội pārājika của vị khác, tỳ khưu phạm pācittiya (ưng đối trị) điều 64, tỳ khưu ni lại phạm pārājika (bất cộng trụ) điều 2, hoặc vị xu hướng theo tà kiến và vẫn không dứt bỏ sau khi được nhắc nhở, tỳ khưu phạm pācittiya (ưng đối trị) điều 68, còn tỳ khưu ni phạm pārājika (bất cộng trụ) điều 3, v.v…

5) Tuy nhiên, tỳ khưu ni cũng được 2 điều giảm nhẹ là chỉ hầu cận ni sư tế độ 2 năm, trong khi tỳ khưu tối thiểu phải 5 năm hoặc hơn, và tỳ khưu ni không phải hành parivāsa khi phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng), bù lại, phải thực hành mānatta nửa tháng ở cả hai hội chúng (trong khi đó tỳ khưu phải hành parivāsa tùy theo số ngày che giấu và chỉ 6 đêm mānatta).

6) Vấn đề xuất gia cho người nữ có phần phức tạp hơn, ví dụ như ni sư tế độ phải 12 năm thâm niên (so với tỳ khưu chỉ 10 năm) và không thể tiếp độ hàng năm (pācittiya điều 82), điều này không thấy quy định cho tỳ khưu. Sau khi cho tu lên bậc trên xong, cần phải di chuyển vị tân tỳ khưu ni đi xa, để tránh trường hợp người chồng bắt lại (pācittiya điều 70).

7) Về phần giới tử ni muốn tu lên bậc trên, phải có sự cho phép của cha mẹ và người chồng (đã xuất giá vẫn còn lệ thuộc vào cha mẹ), phải tròn đủ hai mươi tuổi, đã thực hành sáu pháp trong hai năm, và sự truyền pháp tu lên bậc trên cần được tiến hành lần lượt ở cả hai hội chúng.

8) Xã hội Ấn Độ thời đó có vẻ rất nguy hiểm đối với nữ giới qua những sự việc bất trắc xảy ra cho các tỳ khưu ni đi riêng lẻ hay nhóm.

9) Vấn đề thâu hồi Kaṭhina lại được tìm thấy ở bộ Luật này (pācittiya điều 30, [253]), thay vì được kết tập ở chương Kaṭhina (Đại Phẩm, chương VII).

Nếu xem xét kỹ lưỡng hai bộ Luật của tỳ khưu và tỳ khưu ni, chúng ta có thể tìm ra những sự khác biệt về tâm lý giữa hai giới tính đã được đức Phật nghiệm ra bằng sự tu chứng và giác ngộ của bản thân, trong khi hiện nay, môn Tâm Lý Học phải tốn nhiều công sức với các sự nghiên cứu để tìm ra nguyên lý và áp dụng vào thực tế. Chúng tôi nghĩ rằng còn nhiều vấn đề lý thú khác mà bản thân chúng tôi đã bỏ sót hay không đủ khả năng để phát hiện.

*

3. Đại Phẩm:

Đại Phẩm gồm có mười chương:

1. Chương 1 nói về sự khởi đầu của Giáo Pháp được tính từ lúc đức Thế Tôn chứng đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, và bao gồm quá trình hình thành nghi thức cho xuất gia và tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu, cùng một số vấn đề liên quan đến việc huấn luyện các vị xuất gia.

2. Chương 2 giảng giải về lễ Uposatha với nguyên nhân ban đầu là lời thỉnh cầu của đức vua Seniya Bimbisāra và nhiều vấn đề có liên quan đến việc tiến hành cuộc lễ, như việc ấn định ranh giới (sīmā) và nhà hành lễ Uposatha, việc sám hối, việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha, v.v… Việc gìn giữ sự hợp nhất của hội chúng là điểm được nhấn mạnh ở chương này.

3. Chương 3 giảng giải về việc vào mùa (an cư) mưa. Tuy chỉ được ghi lại trong hai tụng phẩm, nhưng nội dung của chương này trình bày những sự việc có liên quan đến 1/3 thời gian sống và tu tập của vị tỳ khưu. Chương này cần được xem xét kỹ lưỡng vì có những tư liệu mới chưa được trình bày trong các tài liệu về Luật đã được phổ biến.

4. Chương 4 giảng giải về lễ Pavāraṇā (Tự Tứ) tức là một trong những hình thức góp ý nhau về đời sống tu tập có liên quan đến giới luật. Hành sự của lễ Pavāraṇā tuy chỉ được tiến hành một lần trong năm sau ba tháng cư trú mùa mưa, nhưng có tầm quan trọng tương đương với lễ Uposatha nhằm bảo tồn sự trong sạch đồng thời tính hợp nhất của hội chúng.

5. Chương 5 nói về da thú có liên quan đến đời sống của các vị tỳ khưu ví dụ như giày dép, v.v… Câu chuyện xuất gia của thanh niên Soṇa Koḷivisa ở đầu chương giới thiệu về sự nỗ lực tinh tấn của vị tỳ khưu trẻ tuổi này, dẫu rằng do chính sự tinh tấn quá mức này đã là chướng ngại cho sự đắc chứng của vị ấy nhưng cũng là một ví dụ để chúng ta thấy được động cơ tu tập của các vị xuất gia vào thời đức Phật còn tại tiền.

6. Chương 6 nói về dược phẩm và các cách thức chữa bệnh. Chương này gồm có 4 tụng phẩm đề cập đến cách thức chữa trị một số bệnh thông thường, về một số quy định đã được áp dụng trong thời kỳ khó khăn về vật thực, về đức tin vững chắc của nữ cư sĩ Suppiyā, về vấn đề thọ dụng cá và thịt trong Phật Giáo, ngoài ra, còn có câu chuyện về kỷ nữ Ambapālī và một số vấn đề khác vẫn còn có được sự ứng dụng thực tiễn trong thời hiện tại.

7. Chương 7 giảng giải về lễ dâng y Kaṭhina. Đây là cuộc phước thí có tầm vóc quan trọng, vì sự thành tựu của Kaṭhina không những có ảnh hưởng đến phước báu của người thí chủ mà còn có liên quan đến sự tu tập của các tỳ khưu. Sự giảng giải chi tiết với những sự việc tương phản của chương này có lẽ không ngoài mục đích trình bày một số điểm tế nhị cần đến sự chú tâm suy xét.

8. Chương 8 là chương về y phục giảng giải về loại y và các vấn đề có liên quan về nhiều phương diện. Điểm thú vị ở chương này là tụng phẩm mở đầu với câu chuyện về thầy thuốc Jīvaka Komārabhacca và tài năng chữa bệnh của vị này, đáng ngạc nhiên là việc giải phẩu ở đầu và ở bụng đã được tiến hành vào thời gian cách đây hơn 2,500 năm.

9. Chương 9 được đặt tên theo một sự kiện xảy ra ở Campā, nêu lên một tiền lệ không tốt đẹp về việc sử dụng sức mạnh tập thể để áp đặt hành phạt sai trái lên cá nhân. Thời bấy giờ còn có đức Phật là vị quan tòa để phân xử, trong thời hiện tại trách nhiệm xem xét lại sự việc được trao cho các hội chúng tỳ khưu ở những trú xứ khác nếu có sự thỉnh cầu. Các điều giảng giải trong chương này không ngoài việc trình bày khuôn mẫu trong việc tiến hành các hành sự, khả năng thực hiện của hội chúng đối với các loại hành sự khác nhau tùy thuộc vào số lượng tỳ khưu hiện diện, và một số nguyên tắc cần được áp dụng để bảo đảm tính chất đúng Pháp đúng Luật của hành sự. Các hành sự của hội chúng cùng với việc thâu hồi các hành sự ấy cũng được trình bày ở chương này gồm có: hành sự khiển trách, hành sự chỉ dạy, hành sự xua đuổi, hành sự hòa giải, và ba loại hành sự án treo.

10. Chương thứ 10 nói về sự việc chia rẽ hội chúng ở Kosambī từ lúc khởi đầu đến hồi kết thúc. Mầm mống chia rẽ trong câu chuyện này chỉ là một sự tranh cãi về một điều Luật không quan trọng, từ sự xung đột cá nhân đã lan rộng đến tập thể và trở nên căng thẳng không những đưa đến ẩu đả giữa các tỳ khưu mà còn khiến cho đức Phật đã bỏ đi vào rừng sâu sống với sự phục vụ của voi và khỉ. Yếu tố đưa đến việc giải quyết sự chia rẽ này là hành động tẩy chay tích cực của các cư sĩ ở thành Kosambī, cuối cùng sự tranh tụng được giải quyết do sự phục thiện của vị tỳ khưu sai trái. Câu chuyện về hoàng tử Dīghāvu và nếp sống sinh hoạt của ba vị đại đức Anuruddha, Nandiya, Kimbila nhằm đề cao sự sống chung hòa ái và không thù hận lẫn nhau là yếu tố quan trọng cần được xây dựng và duy trì trong đời sống tập thể.

*

4. Tiểu Phẩm:

Tiểu Phẩm là phần thứ nhì của bộ Hợp Phần gồm có 12 chương:

1. Chương đầu là chương Hành Sự đề cập đến bảy loại hành sự nhằm mục đích nhắc nhở và cảnh tỉnh vị tỳ khưu có những hành vi không đúng với Pháp, không đúng với Luật, hầu tạo điều kiện cho vị ấy có cơ hội phục thiện và sửa đổi. Bảy hành sự ấy là hành sự khiển trách, hành sự chỉ dạy, hành sự xua đuổi, hành sự hòa giải, và 3 loại hành sự án treo trong việc không nhìn nhận tội, trong việc không sửa chữa lỗi, và trong việc không từ bỏ tà kiến ác.

2. Chương 2 giảng giải về cách thức phục hồi cho vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) từ lúc khởi đầu cho đến khi kết thúc trải qua các giai đoạn parivāsa, mānatta, mūlāya paṭikassanaṃ nếu vi phạm lại tội ấy hoặc tội tương tợ trong thời gian thực thi hành phạt, và cuối cùng là phần giải tội abbhāna để phục hồi phẩm vị trước đây cho vị tỳ khưu phạm tội.

3. Chương 3 giảng giải về các trường hợp đặc biệt của vị tỳ khưu trong khi đang thực thi các hành phạt để thoát khỏi tội saṅghādisesa lại tiếp tục vi phạm tội ấy nữa, hoặc các tội tương tợ cùng nhóm.

4. Chương 4 giảng giải về bảy cách dàn xếp là cách hành xử Luật với sự hiện diện, hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, hành xử Luật khi không điên cuồng, việc phán xử theo tội đã được thừa nhận, thuận theo số đông, theo tội của vị ấy, cách dùng cỏ che lấp đối với bốn loại tranh tụng là sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, và sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.

5. Chương 5 là chương các Tiểu Sự đề cập đến nhiều vấn đề có liên quan đến sự sinh hoạt hàng ngày của vị tỳ khưu về nhiều khía cạnh khác nhau, như cách phục sức, thuyết Pháp, các vật dụng, v.v…

6. Chương 6 Sàng Tọa thuật lại việc dâng cúng 60 trú xá đầu tiên của một nhà đại phú ở thành Rājagaha cho đến sự cúng dường một tu viện hoàn chỉnh của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc) và các vấn đề liên quan như việc xây dựng, cách thức sử dụng, và các sự phân công trong việc quản lý tu viện.

7. Chương thứ 7 là chương Chia Rẽ Hội Chúng, bắt đầu với câu chuyện dài giới thiệu sự sinh hoạt trong một gia đình tiêu biểu của dòng họ Sākya (Thích Ca), tiếp đến sự xuất gia của sáu thanh niên thuộc dòng họ này, trong đó có Devadatta về sau là người khởi xướng và tiến hành việc chia rẽ hội chúng. Chương này được kết thúc với những câu hỏi của trưởng lão Upāli để xác định những điểm khác biệt giữa sự bất đồng trong hội chúng là việc thường xảy ra trong tập thể, và sự chia rẽ hội chúng là việc có tính chất nghiêm trọng. Nghiệp quả xấu dành cho kẻ chia rẽ hội chúng và phước báu của vị làm hợp nhất hội chúng đã bị chia rẽ cũng được đề cập đến ở chương này.

8. Chương thứ 8 giảng giải về 14 phận sự trong đời sống xuất gia. Cuộc sống của vị tỳ khưu được mô tả đầy đủ trong chương này, bắt đầu với phận sự của vị tỳ khưu vãng lai, thường trú, hoặc chuẩn bị ra đi, luôn cả phận sự của vị tỳ khưu đối với chỗ trú ngụ ở trong rừng hoặc ở trong tu viện. Các phận sự thường nhật như đi khất thực, phận sự ở nhà ăn, tùy hỷ phước báu của thí chủ, việc sử dụng nhà tắm, nhà vệ sinh đều được mô tả chi tiết. Ngoài ra, còn quy định các phận sự tương tác giữa thầy tế độ và thầy dạy học đối với các đệ tử hoặc học trò có liên hệ nữa. Cuộc sống chung có được tốt đẹp hay không chính là do sự nhận thức và thực hành các phận sự này của hàng xuất gia, điển hình là các vị tỳ khưu.

9. Chương thứ 9 Đình Chỉ Giới Bổn Pātimokkha trình bày nguyên do việc đức Thế Tôn đã thuyết giảng về tám pháp kỳ diệu phi thường trong biển cả, để so sánh với tính chất đặc biệt của Pháp và Luật mà Ngài đã tuyên thuyết, đồng thời có liên quan đến việc giao phó trách nhiệm đọc tụng giới bổn Pātimokkha cho các tỳ khưu kể từ thời điểm ấy trở đi. Phương thức đình chỉ giới bổn Pātimokkha nhằm để bảo vệ sự trong sạch của hội chúng, bằng cách loại ra những tỳ khưu phạm tội nhưng vẫn che giấu hoặc tỏ ra không hay biết. Đặc biệt chương này còn đề cập đến nhiều chi tiết tế nhị trong việc khiển trách tội của vị tỳ khưu nguyên cáo và thái độ thích hợp của vị tỳ khưu bị cáo hầu giữ được hòa khí của hai bên.

10. Chương thứ 10 đề cập việc xuất gia của tỳ khưu ni với đầy đủ chi tiết, bắt đầu với việc cầu xin xuất gia của bà Mahāpajāpati Gotamī, sau đó đã được tu lên bậc trên do sự chấp thuận Tám Trọng Pháp, kế đến là năm trăm công nương dòng Sākya được xuất gia với hội chúng tỳ khưu, tiếp nữa là tiến trình tu lên bậc trên với cả hai hội chúng: với hội chúng tỳ khưu ni trước rồi với hội chúng tỳ khưu sau. Trong trường hợp đặc biệt, hành sự tu lên bậc trên ở hội chúng tỳ khưu có thể được tiến hành với sự hiện diện của vị tỳ khưu ni là người đại diện. Ngoài ra, một số vấn đề nảy sinh có tính cách cá biệt của phái nữ cũng được kết tập ở chương này. Nghiên cứu kỹ lưỡng về chương này có thể nắm được nét chung về sự sinh hoạt của tỳ khưu ni vào thời bấy giờ.

11. Chương thứ 11 nói về cuộc kết tập Tam Tạng lần thứ nhất ở Ấn Độ. Ngoài những sử liệu liên quan đến công việc kết tập lời dạy của đức Phật gồm có phần duyên khởi, việc chuẩn bị và tiến hành, chương này còn đề cập đến lời tuyên bố của đại đức Purāṇa về việc vị ấy chỉ ghi nhận những lời dạy do chính bản thân đã được nghe trực tiếp từ kim khẩu của đức Thế Tôn, về việc các vị trưởng lão quyết định không thêm vào và không bỏ bớt bất cứ điều học nào, sự tuân thủ của đại đức Ānanda đối với các bậc trưởng lão, và cách thức áp dụng hình phạt Brahma (Phạm đàn).

12. Chương thứ 12 nói về lần kết tập Tam Tạng lần thứ nhì ở Ấn Độ với phần duyên khởi ở Vesālī vào khoảng 100 năm sau khi đức Phật Vô Dư Niết Bàn. Các chi tiết về tiến trình vận động của cả hai phe trong cuộc tranh tụng này giúp cho độc giả biết được vài nét khái quát trong đời sống sinh hoạt tinh thần vào thời bấy giờ. Đây là sự kiện chia phe nhóm thứ hai sau lần ở Kosambī được ghi chép lại, tiếc rằng sử liệu này dừng ở thời điểm kết thúc của lần kết tập này mà không tiết lộ thêm chi tiết nào về sự phân chia tông phái về sau này.

*

5. Tập Yếu:

Tập Yếu (Parivāra) là bộ cuối cùng của Tạng Luật (Vinayapiṭaka). Về ý nghĩa của từ parivāra, học giả I. B. Horner phân tích như sau: “… pari là tiếp đầu ngữ có ý nghĩa: đi vòng quanh, bao bọc xung quanh, v.v… và vāra lấy theo từ gốc của Sanskrit là √vṛ có nghĩa là bao phủ…” (√vṛ còn có nghĩa thứ hai là chọn lựa); dựa theo đó, chúng tôi tạm lấy tên là “Tập Yếu”, có ý nghĩa nôm na là “Tập hợp lại những điều chính yếu.” Những điều chính yếu ấy đã được chọn lọc từ hai bộ Luật Suttavibhaṅga và Khandhaka rồi được sắp xếp và trình bày qua những góc nhìn khác biệt.

Như vậy, phải chăng bộ Tập Yếu này không đem lại tư liệu gì mới cho người đọc? Suy nghĩ như vậy xét ra cũng có phần đúng. Tuy nhiên, trong số những người đã đọc qua, thậm chí đã học một cách kỹ lưỡng hai bộ Luật trên, người nào có thể khẳng định rằng bản thân có thể hiểu được chính xác và ghi nhớ đầy đủ các điều đức Phật đã dạy, hoặc nghĩ đến việc hệ thống hóa lại kiến thức về Luật? Chúng ta hãy thử trả lời các câu hỏi sau: “Các điều học đã được quy định ở bao nhiêu địa điểm? Mỗi địa điểm như vậy được bao nhiêu điều? Có bao nhiêu điều học đã được quy định chung cho tỳ khưu và tỳ khưu ni? Là các điều học nào? Có bao nhiêu điều học đã được quy định riêng cho tỳ khưu, cho tỳ khưu ni? Là các điều học nào? v.v… Bộ Tập Yếu đã giải quyết các câu hỏi đó giúp cho người đọc khỏi phải mất thì giờ vận dụng ký ức hoặc phải mở sách ra xem lại.

Mười chín chương của bộ Tập Yếu được trình bày theo thứ tự như sau:

I. Chương Mười Sáu Phần Chính thuộc Phân Tích Giới Tỳ khưu: Tóm lược đầy đủ 227 điều học của tỳ khưu.

II. Chương Mười Sáu Phần Chính thuộc Phân Tích Giới Tỳ khưu Ni: là phần tóm lược Bhikkhunīvibhaṅga gồm các điều học được quy định riêng cho tỳ khưu ni, cách trình bày cũng tương tợ như ở chương trên dành cho tỳ khưu.

III. Tóm Lược về Nguồn Sanh Tội: Từ thân khẩu ý được phân chia thành sáu nguồn sanh tội: có thể sanh lên do thân và do ý, không do khẩu; có thể sanh lên do khẩu và do ý, không do thân, v.v… Có tội chỉ có một nguồn sanh tội, có tội có hai, có tội có ba, có tội có bốn, có tội có sáu, và tất cả có mười ba nhóm có nguồn sanh tội giống nhau.

IV. Tuy được phân ra làm hai phần: (a) Sự Trùng Lặp Liên Tục và (b) Phân Tích Cách Dàn Xếp, nhưng phần (b) chỉ là phần tiếp theo của phần (a) chưa được hoàn tất. Sở dĩ nhận ra được hai phần riêng biệt do việc các nhà kết tập vẫn lưu lại câu văn báo hiệu sự kết thúc của phần đầu: “antarapeyyālaṃ niṭṭhitaṃ” có nghĩa là “Sự Trùng Lặp Liên Tục được chấm dứt.” Về phương diện hình thức, cả hai phần này là các câu hỏi và đáp mở đầu bằng dạng tiêu đề (mātikā).

V. Các Câu Hỏi về bộ Hợp Phần: Chỉ là một chương ngắn gọn giới thiệu qua các chương của bộ này gồm có Đại Phẩm và Tiểu Phẩm dưới dạng câu hỏi và đáp về bao nhiêu loại tội cho mỗi chương và chấm dứt khi liệt kê đầy đủ 22 chương của bộ Luật này.

VI. Tăng Theo Từng Bậc: được trình bày dưới dạng pháp số từ nhóm một đến nhóm mười một có nội dung liên quan đến Luật và hình thức được trình bày tương tợ như ở Kinh Tăng Chi Bộ thuộc Tạng Kinh.

VII. Các Câu Vấn Đáp về Lễ Uposatha, v.v… Chỉ là một chương ngắn đề cập đến các hành sự từ lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, … hành phạt mānatta, và sự giải tội. Phần thứ nhì nói về lợi ích của việc quy định điều học. Điều đáng lưu ý là chương này được kết thúc với câu “Mahāvaggo niṭṭhito” nghĩa là “Đại Phẩm được chấm dứt,” trong khi đó các phần đã được trình bày trong chương này được tìm thấy rải rác trong toàn bộ Tạng Luật chứ không phải chỉ riêng ở Đại Phẩm.

VIII. Sưu Tập Các Bài Kệ: Phần lớn được trình bày dưới thể kệ có xen vào một số đoạn văn xuôi. Nội dung liệt kê tên của tám địa điểm đã xảy ra việc quy định của các điều học, mỗi nơi là bao nhiêu điều học, v.v… ngoài ra còn phân các điều học thành nhóm theo nhiều khía cạnh khác nhau như quy định chung, quy định riêng, v.v…

IX. Phân Tích Sự Tranh Tụng: Phân tích chi tiết về bốn sự tranh tụng và bảy cách dàn xếp. Chủ đề được trình bày cô đọng nhưng không kém phần súc tích cần được tham khảo.

X. Sưu Tập Khác về Các Bài Kệ: Chỉ là một chương ngắn thuần túy ở thể kệ thuộc đề tài có liên quan đến vị cáo tội: ý nghĩa và mục đích của việc cáo tội, các điểm sai trái chủ yếu mà vị cáo tội cần phải quán xét trong quá trình cáo tội vị khác.

XI. Chương Cáo Tội: là phần trình bày tiếp theo của chương trên có liên quan đến vị cáo tội và vị xét xử.

XII. Xung Đột (Phần Phụ): Chỉ là một chương ngắn có liên quan đến vị xét xử, tuy nhiên các chi tiết được trình bày là hoàn toàn mới lạ, không tìm thấy trong các phần Luật đã được đọc qua.

XIII. Xung Đột (Phần Chính): Sự thực hành của vị xét xử được giảng giải chi tiết. Cách thức được trình bày tương tợ như ở bộ Phân Tích Giới Bổn, trước tiên giới thiệu một đoạn văn sau đó là phần giải thích ý nghĩa của từng câu.

XIV. Phân Tích Kaṭhina: Các điều cần biết về Kaṭhina được gom tụ lại dưới dạng hỏi đáp có tính cách tổng quát nhưng không kém phần súc tích, ngoài ra còn có những chi tiết chưa được trình bày ở chương Kaṭhina thuộc Đại Phẩm.

XV. Nhóm Năm của Upāli: là các câu hỏi của ngài Upāli và câu trả lời của đức Phật như đã được thấy trong Đại Phẩm và Tiểu Phẩm .

XVI. Nguồn Sanh Khởi: Trình bày về nguồn sanh tội như đã được đề cập ở chương I, II, III. Trong chương này, nguồn sanh tội là chủ đề chính và được trình bày cô đọng theo từng điều học một.

XVII. Sưu Tập Các Bài Kệ (Phần Hai): Là các câu hỏi đáp liên quan đến tội vi phạm. Tuy nhiên, câu trả lời chỉ có tính cách gợi ý. Có câu có thể dễ dàng liên hệ được vấn đề, nhưng nhiều câu trả lời khác đã chiếm mất nhiều thời gian của chúng tôi trong việc tìm hiểu ý nghĩa từ lời giải thích của ngài Buddhaghosa cũng như xem xét và kiểm tra các phần trích dẫn của Cô I. B. Horner trong bản dịch tiếng Anh.

XVIII. Các Bài Kệ Làm Xuất Mồ Hôi: là các câu hỏi khó khiến người đọc phải lúng túng và đổ mồ hôi khi suy nghĩ. Về chương này, phần cước chú là điều không thể thiếu sót và cũng đã tạo ra nhiều khó khăn cho chúng tôi trong việc xác định vấn đề. Có một vài câu hỏi, chúng tôi chỉ ghi lời dịch và không thực hiện phần giải thích vì không xác định được nguồn trích dẫn.

XIX. Năm Phần: Trình bày theo năm đề tài: Hành sự, điều lợi ích, sự quy định các loại hành sự, bảy cách dàn xếp đã được quy định, và sự tổng hợp theo chín vấn đề khác nhau.

Về phần tác giả, nói đúng hơn là vị đã biên tập tài liệu này, chúng ta chỉ biết được tên vị ấy là Dīpa qua lời tổng kết ở phần cuối của tập sách. Vị ấy được giới thiệu là “bậc trí tuệ đã học hỏi từ các vị thầy và thực hiện Parivāra nhằm làm sáng tỏ Chánh Pháp, giúp cho người học Phật giải quyết những hoài nghi đã sanh khởi.” Có ý kiến cho rằng Dīpa là một vị xuất gia người ở đảo Tích Lan (Dịch giả I. B. Horner ghi lại theo Winternitz, A History of Indian Literature, Volume ii, p. 33).

Về thời điểm, cũng không thể xác định chắc chắn. Dựa vào bài kệ liệt kê tên các vị trưởng lão kế thừa Tạng Luật được đề cập ở đoạn [3] nêu tên năm vị thuộc Jambudīpa (Ấn Độ), kế tiếp là nhóm năm vị dẫn đầu là ngài Mahinda có trách nhiệm đi hoằng Pháp ở Tambapaṇṇi, và vị trưởng lão cuối cùng trong danh sách ấy có tên là Sīva. Có tài liệu phỏng đoán rằng vị Sīva đã sống vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch (Oskar Von Hinüber, A Handbook of Pāli Literature, tr. 22); như vậy, có thể suy luận rằng tập Parivāra được thực hiện vào khoảng thời gian đó. Địa điểm đã thực hiện Parivāra được mặc nhiên chấp nhận là ở trên hòn đảo Tambapaṇṇi ấy (tức là nước Sri Lanka ngày nay).

Về nội dung, có các vấn đề đáng được lưu ý như sau:

1) Parivāra tuy được xếp vào Tipiṭaka (Tam Tạng), nhưng phần lớn của Parivāra không phải là những điều đã được nghe trực tiếp từ chính kim khẩu của đức Phật và được ghi lại nguyên văn như hai bộ Luật kia hoặc các bộ thuộc tạng Kinh; điều này được dễ dàng xác định qua văn bản. Parivāra tuy không khẳng định là Phật ngôn nhưng các vấn đề thảo luận không đi ra ngoài những lời dạy của đức Phật.

2) Parivāra hiện đang sử dụng gồm có 19 chương; tuy nhiên cuối chương XIV có dòng chữ “Parivāraṃ niṭṭhitaṃ” báo hiệu sự kết thúc của Parivāra. Dịch giả I. B. Horner dẫn chứng rằng các bản Chú Giải về Luật và Kinh Trường Bộ của ngài Buddhaghosa đề cập đến “soḷasaparivāra” nghĩa là Parivāra gồm có 16 chương và lưu ý chúng ta về chương IV gồm có 2 phần riêng biệt là Anantarapeyyāla (Sự trùng lặp liên tục) và Samathabheda (Phân tích cách dàn xếp) và chương VII gồm có Uposathādipucchāvissajjanā (Các câu vấn đáp về lễ Uposatha, v.v…) và Atthavasapakaraṇa (Lời giải thích về điều lợi ích) đã được thu gọn lại; theo cách giải thích này chúng ta có được Parivāra với mười sáu chương theo như các Chú Giải đã đề cập. Như vậy, phải chăng các chương XV-XIX ở phần Chánh Tạng và Chú Giải đã được thêm vào sau thời kỳ của ngài Buddhaghosa (vào khoảng thế kỷ thứ 5 sau Tây Lịch)? Điều này cần phải chờ đợi câu trả lời từ các công trình nghiên cứu nghiêm túc hoặc từ sự tìm ra các di tích từ những công cuộc khảo cổ để có được câu trả lời thích đáng.

3) Có điều cần nói thêm rằng: Parivāra không phải là sách để đọc thông thường mà được xem là tài liệu học tập, là học cụ giúp cho người nghiên cứu Luật hiểu rõ và nắm vững các vấn đề thuộc về Luật. Sự trình bày vấn đề dưới nhiều góc cạnh, theo từng chủ đề có thể giúp cho người đọc xác định lại kiến thức và góp phần vào việc củng cố sự ghi nhớ. Tuy nhiên, người đọc phổ thông cũng có thể học hỏi được những nét đa dạng trong nghệ thuật phân tích vấn đề.

*

Nội dung của Tạng Luật tuy có chủ đề là các điều học đã được đức Phật quy định cho các tỳ khưu và tỳ khưu ni, nhưng còn được lồng vào những câu chuyện dẫn nhập trình bày bối cảnh xã hội của Ấn Độ vào thời đức Phật. Nếu nghiên cứu kỹ người đọc có thể chọn lọc ra những tư liệu giá trị về lịch sử, y khoa, tâm lý, v.v… và rút ra được những bài học có thể ứng dụng trong đời tu tập sống hàng ngày của hàng xuất gia lẫn tại gia cư sĩ.

Mong rằng bản dịch tiếng Việt Tạng Luật sẽ đóng góp chút ít công đức trong việc tu học và nghiên cứu của quý vị.

Sri Jayawardhanaramaya,
Ngày 04 tháng 07 năm 2005
Bhikkhu Indacanda
(Trương đình Dũng)

nguồn budsas.org

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT (trọn bộ)

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT

Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích nữ Tuệ Đăng Dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

———-0O0———-

quý vị kích thứ tự thiên để đọc

Lời tựa

Thiên thứ nhất: Tự Luận

Chương 1: Thọ Giới, Học Giới và Trì Giới

Chương 2: Sự Truyền Thừa Và Hoằng Dương Giới Luật

Thiên thứ hai: Quy Y Tam Bảo

Chương 1: Tam Bảo Và Quy Y

Chương 2: Phương Pháp Và Lợi Ích Của Quy Y Tam Bảo

Thiên thứ ba: Ngũ Giới Và Thập Thiện

Chương 1: Ngũ Giới Và Nội Dung Của Ngũ Giới

Chương 2: Phương Pháp Cầu Thọ Ngũ Giới Và Công Đức

Thiên thứ tư: Bát Quan Giới Trai

Chương 1: Bát Quan Giới Trai Và Nội Dung

Chương 2: Ngày Lục Trai Và Giới Trai Thanh Tịnh

Chương 3: Điều Kiện Và Cách Thọ Bát Quan Giới Trai

Chương 4: Sau Khi Thọ Bát Quan Giới Trai Xong

Thiên thứ năm: Sa Di Thập Giới Và Thức Xoa Lục Pháp

Chương 1: Xuất Gia Và Mục Đích Của Xuất Gia

Chương 2: Sa Di Giới Và Các Loại Sa Di

Chương 3: Sa Di NươngTheo Thầy Và Sa Di Xuất Gia

Chương 4: Sa Di Thọ Giới Và Trì Phạm Oai Nghi

Chương 5: Thức Xoa Ma Ni

Thiên thứ sáu: Tỳ Kheo Tỳ Kheo Ni Giới Cương Yếu

Chương 1: Khởi Nguyên Của Tỳ Kheo Và Tỳ Kheo Ni

Chương2: Nguyên Do Và Chủng Loại Của Giới Luật Tăng Ni

Chương 3: Nội Dung Và Sự Đồng Dị Của Tỳ Kheo Và Tỳ Kheo Ni Giới

Chương 4: Giới Trọng Yếu Của Tỳ Kheo Và Tỳ Kheo Ni

Chương 5: Pháp Yết Ma Và Pháp Sám Hối

Thiên thứ bảy: Bồ Tát Giới Cương Yếu

Chương 1: Thứ Lớp Và Cảnh Giới Của Bồ Tát

Chương 2: Nội Dung Và Phân Biệt Của Bồ Tát Giới

Chương 3: Giới Trọng Và Giới Khinh Của Bồ Tát Giới

Chương 4: Truyền Thọ Và Điều Kiện Của Bồ Tát Giới

Chương 5: Phương Pháp Thọ Bồ Tát Giới

Chương 6: Sau Khi Thọ Bồ Tát Giới

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT – Thiên thứ ba: Ngũ Giới Và Thập Thiện

 CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT

Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích nữ Tuệ Đăng Dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

—————————————

Thiên thứ ba: Ngũ Giới Và Thập Thiện
Chương 1: Ngũ Giới Và Nội Dung Của Ngũ Giới

I. NGŨ GIỚI LÀ GÌ?

Một đoàn thể có tổ chức, có lý tưởng, có thành viên, phải có quy ước hoặc hiến chương của tổ chức ấy. Một tổ chức kiện toàn hay không chỉ cần xem các nội dung của quy ước hoặc hiến chương của nó có kiện toàn hay không. Một tổ chức có thành tích biểu hiện trác việt hay không, cũng do lý tưởng ở trong quy ước hoặc hiến chương định đoạt. Tất cả xã hội đều y theo lý tưởng riêng chế định quy ước hoặc hiến chương, nhưng muốn biết quy ước hoặc hiến chương có sinh ra được hiệu lực hay không còn phải xem nhân viên trong tổ chức đối với quy ước hoặc hiến chương kia có bảo vệ hoặc tuân hành hay không.

Trường học có học quy, đảng phái có đảng quy (điều lệ đảng), học sinh có công ước tự trị. Cơ cấu huấn luyện có phép tắc học viên phải giữ, đảng phái có phép tắc đảng viên phải giữ; quân nhân, trừ quân pháp quân kỷ ra còn có phép tắc quân nhân phải giữ, thiếu sinh quân cũng có tín điều của thiếu sinh quân. Suy ra các công ước của quốc tế cho đến Hiến Chương Liên Hiệp Quốc đều đồng một tính chất. Mục đích chẳng ngoài nói về quyền lợi, nghĩa vụ và lý tưởng chung cùng theo đuổi của các phần tử hợp thành tổ chức.

Nhưng trên thế gian, dù công ước nào hiến chương nào cũng chẳng tồn tại mãi, cũng chẳng vĩnh cửu bất biến. Chỉ có giới luật của tín đồ tôn giáo là ngoại lệ. Tính chất của giới luật, tuy cũng tương tự như hiến chương công ước hoặc phép tắc phải giữ của tất cả các tổ chức xã hội, nhưng một tôn giáo có thể chẳng suy và càng truyền càng rộng cũng phải xem nội dung giới luật của tôn giáo ấy mà định. Từ khi có lịch sử đến nay, nhân loại trên thế giới đã trải qua không biết bao nhiêu tôn giáo. Nhưng, tôn giáo được nhân loại công nhận chỉ một số ít có thể đếm được. Bởi vì công dụng của giới luật chẳng những phòng ngừa sự hư hỏng của tín đồ, mà lại còn tăng tấn hạnh phúc của nhân loại đại chúng cho đến tất cả chúng sinh. Bằng không, tự nhiên cũng bị đào thải.

Tuy nhiên trừ Phật giáo ra, không có một tôn giáo nào khác có thể thích dụng với ý nghĩa của giới luật như nội dung của Phật giáo, song chúng ta lại không thể phủ nhận bộ phận giới luật của tôn giáo khác cũng có tác dụng.

Hai chữ Giới Luật là chữ Trung Quốc, ý nghĩa của hai chữ Giới Luật cũng khác nhau. Giới là điều chẳng nên làm. Luật là điều nên làm. Giới là chẳng nên. Luật là phải nên. Như vậy, Giới là sự gìn giữ của mỗi người, Luật là hoạt động của đoàn thể. Vì thế trong Phạn văn, Giới gọi là Thi la (Si la), Luật gọi là Tỳ nại da (Vinaya). Nhưng có lúc cũng đem hai nghĩa giới luật dùng chung, cho nên cũng không cần cắt đôi hai chữ giới luật ra định nghĩa.

Truớc tiên ta cần giảng chữ giới. Chữ giới nghĩa là điều không nên làm thì đừng làm, cho nên cũng là một thứ hạn chế thuộc tiêu chuẩn đạo đức. Như thông thường nói giới cờ bạc, giới hút sách, giới uống rượu v.v… là một thứ hành vi câu thúc.

Chúng ta đã biết giới không phải là điều Phật giáo riêng có, các tôn giáo khác cũng có giới quy hoặc giới mệnh. Nhưng giới của Phật giáo cùng giới của tôn giáo khác chẳng hoàn toàn đồng nhau.

Chúng ta cần phải hiểu rõ một nguyên tắc là bất cứ tôn giáo cao cấp nào hữu ích cho nhân loại, tôn giáo ấy đều chẳng thể trái với tiêu chuẩn đạo đức của nhân lọai. Do đó, giới luật đươc chế ra cũng không sai biệt nhiều. Tuy nhiên, giới luật của Phật giáo có nhiều cấp bực từ thấp đến cao, dù là cấp bực thấp nhất cũng vượt lên trên tất cả tôn giáo. Trong đó, ngũ giới là nền tảng của tất cả giới luật, nhưng giới mục của ngũ giới không có xa lạ gì với sinh họat bình thường của con người. Thời cổ đại ở Ấn Độ, các tôn giáo đều có ngũ giới nên đại thể đều tương đồng, như 5 giới sau trong 10 giới của Cơ Đốc giáo cũng vậy. Nay phân biệt nêu ra như sau:

1. Ngũ giới của Phật giáo: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu

2. Ngũ giới của Ma na Pháp điển: Không sát sinh, không vọng ngữ, không trộm cắp, không phi phạm hạnh (không dâm), không tham sân.

3. Ngũ giới của Bao đạt dạ na Pháp điển: Không sát sinh, không vọng ngữ, không trộm cướp, nhẫn nại, không tham.

4. Ngũ giới của Tiền Đa Khư Da, Áo Nghĩa Thư: Khổ hạnh, từ thiện, chánh hạnh, không sát sinh, thật ngữ.

5. Ngũ giới của Kỳ na giáo: không sát sinh, không trộm cướp, không vọng ngữ, không dâm, ly dục.

6. Ngũ giới của Du già phái: không sát sinh, không vọng ngữ, không trộm cướp, không tà dâm, không tham.

7. Năm giới sau của Cơ Đốc giáo: Đừng giết, đừng trộm, đừng dâm, đừng vọng chứng, đừng tham của cải người khác.

Do sự so sánh ở trên có thể biết điểm đặc sắc của ngũ giới Phật giáo là không uống rượu, các tôn giáo khác không có giới rượu, vì Phật giáo trọng trí huệ, uống rượu khiến cho người ta say sưa hôn mê (tai hại của rượu, tiết thứ 2, điều thứ 5 sẽ nói kỹ) vì thế không cho uống rượu. Tham dục, tham sân của các tôn giáo khác nêu ra, không phải hành vi mà là hiện tượng tâm lý, trong ngũ giới của Phật giáo thật đã bao gồm hết (sẽ nói kỹ ở tiết thứ 2, điều thứ 5).

Từ xưa đến nay ở Trung Quốc có nhiều người chủ trương thuyết Nho Thích Đạo tam giáo đồng nguyên, sớm nhất là thấy trong Lý Hoặc Luận của Mâu Tử đời Hậu Hán đem ngũ giới của Phật giáo phối hợp với ngũ thường. Sự phối hợp này có những ý kiến bất đồng như:

1. Thiên thai Nhân Vương Kinh Sớ phối hợp không sát sinh với nhân, không trộm cắp với trí, không tà dâm với nghĩa, không uống rượu với lễ, không vọng ngữ với tín.

2. Chỉ Quán quyển 6 phối hợp không sát sinh với nhân, không trộm cướp với nghĩa, không uống rượu với lễ, không vọng ngữ với trí, không tà dâm với tín.

3.Cách phối hợp thông thường là không sát sinh phối hợp với nhân, không trộm cướp phối hợp với nghĩa, không tà dâm phối hợp với lễ, không vọng ngữ phối hợp với tín, không uống rượu phối hợp với trí.

Nhưng ở đây, phương pháp phối hợp ngũ giới của Phật giáo với ngũ thường của Nho giáo chỉ có thể nói về tiêu chuẩn đạo đức của nhân gian có một xu thế tiếp xúc tương đối gần gũi, chứ chẳng nên nói là tuyệt đối thích đáng. Chẳng nói giới nào khác, chỉ nói một giới không uống rượu thôi, tuy gồm có tinh thần lễ và trí, song lễ và trí của Nho giáo chẳng đồng với giới không uống rượu của Phật giáo, bởi trên thực tế Nho giáo không cấm uống rượu.

Nói đến chỗ này, chúng ta có thể phân biệt sự ưu liệt cao thấp của giới. Qua cái nhìn của Phật giáo, giới có thế giới (giới của thế gian chế) và đệ nhất nghĩa giới (giới của Phật chế) chẳng đồng. Trừ  giới của Phật chế ra, tất cả đều là giới của thế gian chế. Sự bất đồng của Phật giới và giới của thế gian là tại điểm xuất phát và mục đích khác nhau. Các tôn giáo khác giữ giới là tuân theo ý chí của Thượng đế hoặc thánh thần, như tín đồ Cơ Đốc giáo vâng theo 10 giới, bởi vì đó là mệnh lệnh của Thượng đế tuyên bố, nên chẳng tuân giữ là chống lại Thượng đế, làm cho Thượng đế nổi giận. Phật giáo không phải như vậy Phật giới tuy do Phật chế, song tuân giữ là ở tại mỗi người, Đức Phật chế giới cũng là căn cứ vào ý chí của chúng sinh chứ chẳng ép buộc người nào, giữ giới chẳng phải vì Phật mà là ý chí tự do mỗi người muốn giữ. Như ăn cơm là việc chính của mỗi người, ăn xong tự mình no, không ăn tự mình đói, không quan hệ chút nào với người khác. Nhưng Đức Phật với tấm lòng đại trí đại bi, dù chẳng thay thế chúng sinh ăn cơm được, Ngài cũng khuyên nhủ và hướng dẫn chúng sinh ngu si đói khát đi ăn cơm (dụ cho giữ giới). Đây là điểm bất đồng thứ nhất giữa Phật giới và giới của thế gian.

Thông thường, giới của thế gian, hơn phân nửa là thiên về một mặt. Như tín đồ Cơ Đốc giáo giữ giới ( giới là giới của nghi thức giáo huấn ) là vì cầu được sự sủng ái của Thượng đế và hy vọng sau khi bỏ thân này, được vào Thiên Quốc của Thượng đế. Mục đích giữ giới của họ chẳng vì tạo thành hạnh phúc an lạc của nhân gian mà vì đạt ý muốn sinh lên trời, vì thế thiên về hành vi bi thương hoặc nói là xuất thế (theo Phật pháp nói giả sử họ được sinh lên trời cũng thật chưa là xuất thế). Do đó, họ luôn luôn vì lý do Thiên Quốc mà phủ định sự hòa bình an lạc của nhân gian, cho nên chiến tranh tôn giáo cũng do đây mà ra. Còn như Nho giáo (thật ra Nho gia chẳng phải là Nho giáo, vì Nho giáo vốn chẳng thành tôn giáo) đối với sự tuân giữ cương thường luân lý là tạo thành hạnh phúc và hòa bình an lạc của nhân gian, song lại chẳng hướng về hình nhi thượng hoặc xuất thế, vì thế nó thiên về hiện thực. Chỉ có sự tuân giữ Phật giới của tín đồ Phật giáo vừa là tạo phước nhân gian cũng là tìm cầu cảnh giới xuất thế, vì thế trên Phật giáo sử chỉ có ghi chép nhẫn nhục và hy sinh chứ không có việc chiến tranh và đẫm máu, đây là điểm bất đồng thứ hai của Phật giới và giới thế gian.

Thường thường giới thế gian chỉ có sự tuân giữ về hình thức nhưng không có nhận được giới thể, thế nên không có phân biệt được giới tội và tánh tội. Như 10 giới của Cơ Đốc giáo chẳng phải chỉ tín đồ Cơ Đốc giáo có, Cơ Đốc giáo cho rằng Thượng đế chế ước cho nhân loại, bất luận tin hay không tin đều ở trong phạm vi của chế ước này, người tin cố nhiên phải giữ, người chưa tin cũng chẳng thể chăng giữ; nếu chẳng giữ, tội lỗi cũng đồng với người đã tin. Phật giới không như vậy. Phật giới là do Phật chế, sự thọ giới của đệ tử Phật phải là sự truyền thọ. Xét về sự truyền thừa và nạp thọ giới thể, chỉ có người đã thọ giới rồi mới đem giới truyền cho người khác được. Giới thể này là trực tiếp truyền từ Đức Phật, thọ giới mà nhận được giới thể là nạp thọ Pháp thân Phật vào trong tâm tánh của chính mình, vì Pháp thân Phật tiếp thông với Pháp thân sẵn có của mọi người, vì dẫn đạo sự phát minh hoặc chứng ngộ tự tánh là Phật của mỗi người. Thọ Phật giới rồi mà lại phá giới là đồng với phá Pháp thân Phật, vì thế tội lỗi rất lớn. Người không có thọ giới tuy làm ác nhưng chẳng phải phá giới, bản thân làm ác tuy là tội lỗi mức độ tội lỗi lại không to, không nặng bằng người thọ giới phá giới. Đây là biết pháp, phạm pháp thì tội hơn một bực, tánh tội của làm ác (vốn là tội) lại thêm giới tội của phá giới. Trong Phật pháp, phá giới là phá Pháp thân Phật (Tam thế chư Phật và tự tánh là Phật), vì thế mức độ của giới tội lớn hơn tánh tội rất nhiều. Đây là điểm bất đồng thứ ba của Phật giới và giới thế gian.

Thường thường, giới thế gian chỉ dạy người trừ bỏ hành vi phải ngăn cấm mà chẳng hình thành được một hệ thống luận lý. Phật giới được xếp vào một Tạng trong Tam tạng của Phật giáo, cùng với Kinh tạng, Luận tạng đứng vững như cái đảnh ba chân và lấy Luật tạng chuyên môn nói về giới làm then chốt cho Phật pháp trụ thế. Vì thế, có một hệ thống hoàn bị. Tỷ như đem sự cấu thành của giới phân làm 4 khoa mục lớn là giới pháp, giới thể, giới hạnh, giới tướng, nếu thiếu một thì chẳng được gọi là trì giới. Giới pháp là pháp quy của Phật chế. Giới thể là một mạch truyền thừa vô biểu sắc pháp của các sư truyền thọ cho nhau, đó là công đức sở huân. Giới hạnh là do hành vi trì giới biểu hiện ra. Giới tướng là hiện tượng sai biệt của hành vi trì giới biểu hiện ra. Nếu như chẳng đầy đủ được 4 điều kiện ( thường gọi là 4 khoa), thì tuy không sát sinh, không trộm cướp , cho đến không uống rượu, cũng chỉ được xem là giữ giới thế gian mà chẳng phải là Phật giới, công đức giữ gìn giới thế gian là hữu hạn. Đây là điều bất đồng thứ tư của Phật giới và giới thế gian.

Ở đây xin hỏi: Tin Phật, tại sao cần thọ giới?

Trong thiên quy y Tam Bảo đã nói về tính chất trọng yếu của tam quy. Người tin Phật có quy y Tam bảo giống như sự ghi tên đăng ký của học sinh nhập học, nhưng ghi tên đăng ký chẳng bằng đi học. Sau khi quy y Tam bảo, nhận được Phật giới mới là bước đầu của con đường thành Phật. Quy y Tam bảo chỉ là công đức chuẩn bị của sự học Phật, thành Phật mà thôi. Lại vì trong quá trình học Phật là xa xôi diệu vợi, trình độ phát tâm học Phật có cao thấp, vì thế chúng ta tin Phật và thọ Phật giới cũng có nhiều thứ lớp. Thứ lớp của Phật giới tuy nhiều nhưng đều lấy ngũ giới làm nền tảng. Ngũ giới tuy là từng lớp thấp nhất của Phật giới, song như cất lầu trước chẳng xây móng thì ý muốn cất lầu rốt cuộc chỉ là mộng tưởng. Vì thế có người nói :”Pháp ngũ giới là cha của ba đời chư Phật, y ngũ giới mà sinh ra thập phương tam thế tất cả chư Phật”.

II. NỘI DUNG CỦA NGŨ GIỚI  

Mục đích chế giới của Đức Phật là hi vọng đệ tử trì giới đúng như pháp, tác dụng của sự trì giới đúng như pháp là làm tăng trưởng công đức, nhưng công đức này được phát khởi, đều là do bi tâm nung đúc và trưởng dưỡng. Xem mặt ngoài của ngũ giới thì thấy chỉ là tiêu cực chẳng làm ác, mà không có tác dụng tích cực làm thiện. Thật ra chẳng phải vậy. Nếu xét kỹ hơn, chúng ta sẽ thấy giữ gìn ngũ giới thật đã là bao hàm vô hạn bi tâm; bi tâm có thể hiểu là sự mở rộng của tâm đồng cảm; đây là tâm đồng cảm suy từ mình đến người và đến tất cả chúng sinh. Nhân vì mình không chịu bị người khác sát hại cho nên có giới không sát sinh. Nhân vì chẳng chịu của cải tài sản của mình bị người trộm cướp, vì thế biết người khác cho đến tất cả chúng sinh đều có tâm chẳng chịu bị trộm cướp cho nên có giới không trộm cướp. Ba giới sau, cũng theo đây suy ra mà biết. Do đó, chúng ta có thể nói công đức trì giới cố nhiên là do tín ngưỡng và cũng do bi tâm nung đúc và trưởng dưỡng, công đức của Phật lớn vô cực. Bi tâm của Phật cũng lớn vô cùng, ấy là đồng thể đại bi vậy.

Vì thế ở trong kinh Phật thường gọi ngũ giới là ngũ đại thí, trì ngũ giới nếu trì đến triệt để chẳng những ngăn nơi “chỉ ác” mà còn làm đến “hành thiện”: Không sát sinh mà phải hộ sinh phóng sinh, không trộm cướp mà phải hành bố thí. Ba giới kia theo đây có thể biết. Nhưng bản ý của ngũ đại thí là thí cái tâm không sợ hãi cho tất cả chúng sinh. Do ta trì giới sát nên chúng sinh chẳng sợ giết hại. Do ta trì giới không trộm cướp nên chúng sinh chẳng sợ ta trộm cướp. Do ta trì giới tà dâm nên chúng sinh chẳng sợ ta dâm ô thân thuộc của họ. Do ta trì giới vọng ngữ nên chúng sinh chẳng sợ ta lường gạt. Do ta trì giới không uống rượu nên chúng sinh không sợ ta uống rượu mà điên cuồng quậy phá. Cho nên gọi ngũ giới là ngũ đại thí.

Người sống trong thế giới hiện tại, không ai có uy lực tuyệt đối nắm được cái không bị tai họa do sát, đạo, dâm, vọng gây ra. Chính vì thế mà chúng ta đề xướng sự thọ trì ngũ giới; nếu như thêm nhiều người thọ trì ngũ giới, nhân lọai xã hội bớt đi một phần sự uy hiếp của tai họa; mọi người đều thọ trì ngũ giới, thế giới chúng ta sẽ trở thành Tịnh độ nhân gian.

Điều quan trọng là ngũ giới của Phật giáo có thể mở rộng tâm đồng cảm đến tất cả chúng sinh. Thọ trì ngũ giới có thể ban cho nhân loại sự vô úy (không sợ), cũng tăng cho tất cả chúng sinh sự vô úy đây là điều mà giới của thế gian chẳng bì kịp. Tỷ như giới không sát sinh của Cơ Đốc giáo chỉ không giết người, mà chẳng cấm giết các động vật ngoài nhân loại. Nho gia Trung quốc chủ trương mở rộng lòng nhân đến vật, nhưng lại chẳng ngăn giết sinh vật khác. Sự lớn lao của công đức thọ trì Phật giới là ở chỗ này, bởi vì trì một giới sát, thì ở trên phần của tất cả chúng sinh đều được công đức bất sát. Cho nên, nếu nhân loại đều thọ trì ngũ giới, chẳng những nhân loại được hòa bình an lạc, mà tất cả chúng sinh cũng giải trừ được tai họa do loài người gây ra.

Ngũ giới là nền tảng của tất cả Phật giới, Phật tử tại gia sau khi tiến vào cửa Phật đều phải nên thọ trì, vì thế thông thường gọi là Ngũ giới tại gia.

Ngũ giới tuy chỉ có 5 điều, song về chỗ vi tế của nó rất là phiền phức. Như muốn được ngũ giới thanh tịnh, ta nên nghiên cứu thêm. Nay lược thuật như sau:

Sự hủy phạm ngũ giới đều có khinh trọng. Tội trọng (nặng), chẳng cho sám hối, vì thế gọi là bất khả hối. Tội khinh (nhẹ) cho sám hối, lại phân làm 2 loại gọi là trung khả hối và hạ khả hối. Theo Đại thừa Bồ tát giới, khi phạm tội trọng, nên thực hành Thủ tướng sám, nghĩa là ở trước Phật lễ sám, được thấy hảo tướng, thấy hào quang, thấy bông hoa, thấy Phật, Bồ tát đến xoa đầu, tội liền trừ diệt. Song, sám hối trừ tội, chỉ trừ được tội phạm giới mà chẳng trừ được tánh tội, như phạm giới giết người, giới tội đáng lẽ bị đọa tam đồ, nhưng nợ người một mạng vẫn phải bồi thường, nhân duyên thành thục chắc chắn phải trả nợ báo. Nếu chẳng nhập Vô dư Niết bàn, giả sử chứng quả A la hán, vẫn phải bồi thường người một mạng, cho đến giết một con kiến, tánh tội vĩnh viễn chẳng diệt. Giới trộm cướp cũng giống như vậy, giới tội của giới trộm cướp tuy giống như giới sát sinh, nhưng tánh tội giới trộm cướp chỉ cần bồi thường đúng giá đã trộm là có thể giải quyết xong.

Trong ngũ giới, bốn giới sát, đạo, dâm, vọng, đều có khả hối và bất khả hối, một giới uống rượu dù phạm trong bất cứ trường hợp nào, đều là khả hối. Bốn giới trước của ngũ giới đều có giới tội và tánh tội, giới uống rượu chỉ có giới tội mà không có tánh tội. Vì thế gọi 4 giới trước là tánh giới, giới uống rượu là giá giới. Tánh giới là trong Phật pháp và thế pháp đều công nhận. Dù Phật chẳng chế giới, khi phạm sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ là hành vi thuộc bản tánh, đều là tội ác, vì thế chỉ có người thọ ngũ giới Phật giáo rồi chẳng được phạm.

Nói đến chỗ này cũng có người hoài nghi, chẳng thọ Phật giới làm việc xấu chỉ có một lớp tánh tội, thọ Phật giới lại thêm một giới tội lớn hơn. Vậy đâu cần thọ giới? Kỳ thật, thọ giới là vì trừ ác nghiệp, chẳng lẽ sau khi thọ giới lại chuẩn bị tạo ác sao? Giả sử thật muốn tạo ác, cũng có thể tùy thời xả giới, vạn nhất chưa kịp xả giới mà tạo ác nghiệp, tuy sẽ bị đọa tam đồ, song rốt cuộc cũng có thể thành Phật. Nếu như vĩnh viễn chẳng thọ giới, cũng sẽ vĩnh viễn không có khả năng thành Phật, hạt giống nhân duyên nếu gieo thuần thục, chắc chắn sẽ có thu hoạch. Xin đem sự trì phạm của ngũ giới trình bày như sau:

1.       GIỚI SÁT SINH

Giới sát lấy giết người làm trọng, giết chúng sinh dị loại là khinh. Giết người đủ 5 điều kiện thành tội thì không thể sám hối (bất khả hối):

1.       Là người: Bị giết là người, chứ chẳng phải dị loại bàng sinh.

2.       Tưởng là người: Có y giết người mà chẳng tưởng giết dị loại bàng sinh.

3.       Có tâm giết: Có tâm giết người chứ chẳng phải cố ý ngộ sát hoặc vô tâm giết lầm người.

4.       Lập phương tiện: Vận dụng phương pháp giết người.

5.       Người chết: Người bị giết chắc chắn đã chết.

Thủ đoạn giết người nhiều vô cùng, nếu phân loại chẳng ngoài tự tay giết, khuyên người tự sát, bảo người đi giết người. Hậu quả của giết người có ba loại:

1.       Ngay lúc giết người liền chết, phạm tội bất khả hối.

2.       Ngay lúc giết không chết, về sau nhân đó mà chết cũng phạm tội bất khả hối.

3.       Ngay lúc giết không chết, về sau cùng chẳng nhân đó chết, phạm tội trung khả hối.

Giết người chẳng hạn cuộc dùng dao, dùng súng, mà dùng bất cứ thủ đoạn nào làm cho người chết đều gọi là giết người, đều mang tội giết người.

Động cơ sát sinh chẳng ngoài 4 thứ, phạm tội cũng có sai biệt:

1. Vì giết người mà làm các phương tiện (như đào hầm, bỏ thuốc độc, phóng hỏa, nhận nước,v.v…) khiến cho người chết, phạm tội bất khả hối, phi nhân (người biến hóa) chết phạm trung khả hối, súc sinh chết cũng phạm trung khả hối.

2. Vì giết phi nhân mà làm các phương tiện khiến cho phi nhân chết, phạm trung khả hối; khiến cho người chết và súc sinh chết đều phạm tội khả hối.

3. Vì giết súc sinh mà làm các phương tiện khiến cho người chết, phi nhân chết, súc sinh chết đều phạm tội hạ khả hối.

4. Làm phương tiện bất định: Chuẩn bị gặp ai giết nấy, khiến cho người chết, phạm tội bất khả hối; phi nhân chết, phạm tội trung khả hối; súc sinh chết, phạm tội hạ khả hối.

Bốn thứ động cơ đã nêu ở trên đều lấy bên đối tượng của động cơ đắc tội, không lấy bên đối tượng bị giết đắc tội, tỷ như giết người lại giết lầm phi nhân là tội trung, giết lầm súc sinh cũng là tội trung, là từ phương tiện của sự giết người mà đắc tội. Nếu như làm phương tiện giết người mà chưa đạt đến mục đích giết người, cũng chưa giết lầm phi nhân và súc sinh, đắc tội trung khả hối.

Lấy đây suy ra, làm các phương tiện giết phi nhân và giết súc sinh, đều phạm tội hạ khả hối.

Phật cấm sát sinh, cho nên cũng cấm phá thai. Nếu giết thai nhi bằng cách phá thai, thai nhi chết, phạm tội bất khả hối; thai không chết mà mẹ chết , phạm tội trung khả hối ( cũng từ bên thai nhi làm phương tiện giết mà đắc tội); mẹ con đều chết, phạm tội bất khả hối; mẹ con đều không chết, phạm tội trung khả hối. Nếu vì giết mẹ mà phá thai, đắc tội ngược lại với những điều nói trên.

Nhân vì giết người, người chết phạm tội bất khả hối; giết phi nhân, phi nhân chết, phạm tội trung khả hối. Cho nên, đại sư Ngẫu Ích nói:” Giết người tưởng là người, phạm tội bất khả hối. Giết người nghi là người, cũng phạm tội bất khả hối. Giết người tưởng là phi nhân, phạm tội trung khả hối. Giết phi nhân tưởng là người, phạm tội trung khả hối. Giết phi nhân nghi là người, phạm tội trung khả hối. Giết phi nhân tưởng là phi nhân, phạm tội trung khả hối”.

Giết cha mẹ, giết A la hán là phạm tội nghịch phải đọa địa ngục vô gián. Cho đến tội cực trọng trong giới sát sinh cũng có phân biệt: Giết cha mẹ tưởng là cha mẹ, phạm tội nghịch; giết cha mẹ nghi là cha mẹ, cũng phạm tội nghịch; giết cha mẹ tuởng là chẳng phải cha mẹ (như người từ thuở bé xa cách cha mẹ chẳng biết cha mẹ sinh ra mình là ai), chẳng phạm tội nghi nhưng phạm tội bất khả hối. Như người bị giết chẳng phải cha mẹ mà tưởng là cha mẹ (như từ thuở bé làm con nuôi của người mà không biết) hoặc hoài nghi là cha mẹ thì chẳng phạm tội nghịch, nhưng phạm tội bất khả hối. Giết A la hán cũng chiếu theo giết cha mẹ mà biết. Song, cũng có thuyết nói dầu chẳng tưởng là A la hán, giết cũng phạm tội nghịch. Nếu như kẻ giết người tự mình chết trước, người bị giết chết sau, thì phạm tội khả hối chứ chẳng phải bất khả hối. Bởi vì người chết giới thể cũng xả (ngũ giới thọ trì suốt đời này thôi), cho nên chỉ trước lúc chưa chết đắc tội phương tiện giết người, chẳng đắc tội đã toại ý giết người, sau khi chết là đã xả giới cũng không có giới tội, người bị giết tuy do kẻ kia giết chết song lại chết sau hung thủ thì hung thủ không có giới tội giết người.

Sát sinh lấy tâm làm chủ, vô ý giết chẳng phạm tội trọng, vì thế đùa giỡn đánh người, người bị đánh nhân đó mà chết, chẳng phạm tội trọng, chỉ phạm tội khả hối. Giết lầm ngòai ý muốn không phạm. Nếu chẳng cẩn thận để đến nỗi giết lầm người khác chết thì phạm tội trung khả hối. Nếu si cuồng tâm lọan, đau khổ quẫn trí, chẳng tự chủ được mà giết người, không phạm.

Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, giết phi nhân rất ít thấy, ít nghe; giết người chẳng phải là việc tầm thường; nếu chẳng phải là đồ tể thì mỗi ngày cũng không giết heo, giết bò. Giới sát sinh chúng ta dễ phạm nhất là đối với loài bàng sinh, động vật nhỏ bé như trùng kiến.

Có người viết thư hỏi tôi: Trong nhà có trùng kiến phải xử trí thế nào? Lúc quét tước chắc chắn là giết hại chút ít, giết hại như thế có bị coi là phá giới sát sinh hay không? Hay là quy lỗi về nghiệp báo của trùng kiến phải chịu như thế ? Đây thật là một vấn đề lớn, vì bảo vệ tài sản sinh sống của tự thân con người nên phải đuổi trừ trùng kiến phá họai, vì hộ trì giới thể thanh tịnh lại chẳng được cố ý giết hại trùng kiến. Nhưng trùng kiến tổn hại đối với người, cần phải đuổi trừ, lúc đuổi trừ chẳng được có tâm sát hại, phải làm cẩn thận, nếu đã làm hết khả năng hộ sinh rồi, lỡ có giết lầm hại lầm, phải tự trách tâm mình, sinh lòng hối hận, phát bi nguyện, nguyện cho chúng nó sinh vào loài thiện, nguyện cho chúng nó sẽ được thành Phật thì mới có thể khỏi tội sát sinh. Điều này có nói trong luật, như  Thập Tụng Luật quyển 11 ghi chép Đức Phật đích thân trừ côn trùng nơi giường nệm của chư Tăng. Theo Thập Tụng Luật quyển 37, nhân vì trong nhà tắm ẩm thấp sinh  trùng, Phật nói:”Phải quét dọn cho sạch”. Nhưng điều quan trọng nhất là không cho trong nhà cửa sinh trùng kiến, thường phải giữ cho khô ráo sạch sẽ, vừa hư phải sửa ngay, những lỗ dưới chân tường phải lấp lại sớm, chỗ dễ sinh trùng trước lúc chưa sinh phải xịt thuốc sát trùng phòng ngừa. Nếu sau khi đã sinh trùng, vì trì giới phải cẩn thận đuổi trừ, chẳng được dùng thuốc sát trùng để giết hại. Bằng không, giết một côn trùng đắc một tội hạ khả hối, giết ngàn vạn côn trùng thì đắc ngàn vạn tội hạ khả hối. Nhưng muốn được giới sát sinh tuyệt đối thanh tịnh phải đến Sơ quả Tiểu thừa trở lên, vì Sơ quả cày đất, côn trùng cách lưỡi cày 4 tấc, phàm phu làm chẳng được.

Do vì trì phạm của giới hoàn toàn ở nơi tâm, cho nên đối với tội sát trùng phân biệt ra sáu trường hợp : Có trùng, tưởng có trùng, phạm tội căn bản tiểu khả hối; có trùng nghi có trùng, cũng phạm tội căn bản tiểu khả hối; không trùng tưởng có trùng, phạm tội phương tiện tiểu khả hối; không trùng nghi có trùng, cũng phạm tội phương tiện tiểu khả hối; có trùng, tưởng không trùng, không phạm; không trùng, tưởng không trùng, không phạm. Ngoài ra, chẳng được đánh người, chẳng được đánh súc sinh, cho đến trùng kiến đem tâm giận hờn đánh đập đều đắc tội.

Chỗ này người đọc còn có một nghi vấn đó là giữ giới sát có cần phải ăn chay hay không? Theo luật chế, từ ngũ giới đến Tỳ kheo giới không bắt buộc phải ăn chay. Chẳng ăn cá thịt là quy định của Đại thừa Bồ tát giới, trì giới không sát sinh của ngũ giới chẳng được tự mình sát sinh, chẳng được khuyên người hay bảo người sát sinh. Cho nên chính mình chẳng được giết gà, vịt, cá, tôm nếu như mua đồ đã làm rồi thì chẳng bị sự cấm đoán của ngũ giới.

Đương nhiên, nếu như có thể phát tâm ăn chay lại càng tốt. Ăn chay là đức tính tốt đẹp của Phật giáo Đại thừa, ăn chay là sự biểu hiện cụ thể của tinh thần giới sát tiến thêm một bước, cho nên tôi hy vọng người thọ ngũ giới rồi tốt nhất là ăn chay, bằng không thì cũng chẳng ngại gì.

2.       GIỚI TRỘM CƯỚP

Giới trộm cướp, nếu như giới thiệu tường tận thì đó là một giới phiền phức hơn hết trong ngũ giới. Ở đây chúng ta chỉ nói đại yếu.

Trộm cướp là hành vi chẳng cho mà lấy.

Sự hủy phạm của giới trộm cướp có chia khinh trọng. Đủ 6 điều kiện sau đây thành tội bất khả hối:

1. Tài vật của người khác.

2. Biết rõ tài vật của người chẳng phải của mình.

3. Tâm trộm: Khởi niệm trộm cướp, cũng là trước có dự mưu trộm cướp.

4. Tìm cách lấy: Nhờ các phương pháp đạt thành mục đích trộm cướp.

5. Giá trị 5 tiền: Vật trộm cướp trị giá 5 tiền. Đây là Đức Phật chiếu theo quốc pháp của nước Ma Kiệt Đà ở Ấn Độ đương thời mà chế, quốc pháp định trộm cướp 5 tiền trở lên thì phạm tội chết. Vì thế, Phật chế định Phật tử trộm cướp 5 tiền trở lên cũng thành tội trọng bất khả hối. Năm tiền có giá trị bao nhiêu thật là khó định, căn cứ theo sự biên khảo của Đại sư Độc Thể cuối đời nhà Minh, 5 tiền tương ứng với 3 phân 1 ly, 2 hào bạc; căn cứ theo sự nghiên cứu của Đại sư Ngẫu Ích, 5 tiền là 8 phân bạc.

6. Lìa chỗ cũ: Dời tài vật đã trộm cướp ra khỏi vị trí cũ của nó. Nhưng trong đây gồm có: Di động vị trí, biến đổi hình trạng, thay đổi màu sắc v.v… Hễ đem tâm trộm cướp khiến cho chủ của tài vật khởi ra ý tưởng mất tài vật thì đều gọi là ly bổn xứ (lìa chỗ cũ).

Bất luận người ta không cho mà tự mình lấy hoặc bảo người khác lấy, đều là trộm cướp; lấy được tang vật 5 tiền trở lên thành tội bất khả hối.

Nếu như chủ tài vật không đồng ý, bất luận thủ đoạn nào, gạt lấy, trộm lấy, cướp lấy, dùng sức mạnh chiếm, bòn rút, hễ đủ 6 điều kiện kể trên đều thành tội trọng bất khả hối. Trừ lợi nhuận hợp lý ra (Ngũ giới Ưu bà tắc trừ các ác luật nghi như: chẳng được chài lưới, săn bắn, bán rượu, đồ tể, bán thuốc độc, buôn lậu, mãi dâm, cờ bạc,v.v…, có thể buôn bán hoặc canh tác), chẳng được âm mưu lấy tài vật của người.

Không luận là trên hay dưới mặt đất, mặt nước, trong nước, chỗ cao, chỗ thấp, trên cây, trong không, động vật, thực vật, khoáng vật, trong hành động, trong tĩnh chỉ, tất cả tài vật bất luận thuộc chủ quyền của quốc gia, của tư nhân, của tôn giáo đều chẳng được trộm cướp. Trừ phi là vật phấn tảo (vật ném bỏ, như rác) không có chủ, lấy không tội. Nếu đem tâm trộm cướp trộm người, mang người trên vai, hai chân rời đất, pham tội bất khả hối; có tâm dụ dỗ người đem bán, khiến cho người đó đi qua hai bước, cũng phạm tội bất khả hối.

Thử nêu ra vài trường hợp:

Nếu đem tâm trộm cướp, trộm cướp động vật bốn chân như trâu, bò, lừa, ngựa dùng dây dắt đi, đi qua bốn bước, phạm tội trọng bất khả hối.

–  Trong nước có bè gỗ, có tâm trộm cướp muốn giữ lại một phần khiến cho nó lìa bè trị giá 5 tiền, phạm tội bất khả hối.

–  Vật trong nước, trộm lấy lìa mặt nước, hoặc nhận chìm xuống đáy, trị giá 5 tiền, thành tội bất khả hối.

–  Không trung nếu chim có chủ ngậm vật của người khác bay, có tâm trộm cướp chờ lấy, phạm tội trung khả hối; lấy được trị giá 5 tiền, phạm tội bất khả hối.

Nếu có chim rừng ngậm vật bay, có tâm trộm cướp chờ lấy, phạm tội hạ khả hối; lấy được, phạm tội trung khả hối (đây chẳng phải là vì một vật đắc tội, mà vì có tâm trộm cướp nên bị kết tội).

–  Có tâm trộm cướp xá lợi, phạm tội trung khả hối (vì xá lợi không tính được trị giá). Tâm cung kính lấy xá lợi không phạm (trong Luật và Kinh A Hàm,, nguyên nghĩa của Xá lợi là hài cốt. Ngày nay tương truyền hài cốt thiêu rồi được hạt cứng chắc gọi là hạt Xá lợi).

–  Kinh sách, pháp khí, tất cả đồ dùng của Tam bảo, tài vật trang nghiêm đều không được trộm, nếu trộm trị giá 5 tiền đều phạm tội bất khả hối.

–  Tất cả thuế chẳng được lậu, nếu lậu thuế trị giá 5 tiền thành tội bất khả hối. Nói chung, các thứ thuế được pháp lệnh của nhà nước quy định cho đến trong các bưu kiện ngày nay, thư tín gửi kèm trong vật ấn loát hoặc dùng vật ấn loát để đạt thành mục đích thư tín, hoặc gửi tiền trong thư tín bình thường, đều gọi là trốn thuế, đều phạm giới trộm cướp, giá trị 5 tiền thành tội bất khả hối.

Đại sư Hoằng Nhất giỏi về thư pháp, người đến cầu xin chữ viết của Ngài rất đông. Có một lần đệ tử tại gia của Ngài gửi Ngài một tập giấy, xin Ngài viết chữ, Ngài viết xong những chữ phải viết, giấy còn dư, Ngài không biết phải xử lý thế nào để khỏi phạm giới chẳng cho mà lấy. Ngài bèn viết thư hỏi vị đệ tử tại gia ấy. Do đây có thể thấy được sự trì giới nghiêm cẩn của Đại sư Hoằng Nhất.

Trong mười pháp giới, chỉ có Phật mới là trì giới rốt ráo thanh tịnh, đến Sơ quả Tiểu thừa mới đoạn hẳn được tội cố trộm cướp.

Phạm vi của giới trộm cướp bao quát ở trong sự tổn hại tài vật của người khác, đây là loại ác tác “tổn người chẳng lợi mình”. Nếu như có tâm làm cho tổn thất tài vật của kẻ khác đang mong được, bất luận là dùng thủ đoạn nào, chỉ cần trở thành sự thật, nếu tài vật tổn hại trị giá 5 tiền thì đắc tội trọng bất khả hối.

Sự khinh trọng của giới trộm cướp được phân biệt như sau: Trộm tài vật trị giá 5 tiền hoặc quá 5 tiền, phạm tội trọng bất khả hối. Trộm chẳng đủ 5 tiền, phạm tội trung khả hối. Làm phương tiện trộm cướp mà chưa đạt thành mục đích trộm cướp, phạm tội hạ khả hối. Lậu thuế hoặc tổn hại, tội đồng với trộm cướp.

Theo Phật pháp, chẳng được viện lý do như đói khát, tật bệnh, thiên tai, hoạn nạn, hiếu dưỡng cha mẹ, cung cấp vợ con để làm trộm cướp. Nếu làm trộm cướp  đều thành tội. Như có khó khăn, có thể cầu xin nhận của người bố thí thì không tội. Mượn mà không trả cũng phạm tội trộm cướp.

Nhưng trong giới trộm cướp cũng có khai duyên như tưởng là vật của mình mà lấy, được đối phương đồng ý, hoặc vì tình cảm thân thiết biết người kia ắt đồng ý mà lấy, tạm thời dùng mà lấy, cho rằng người ta bỏ mà lấy, hoặc nhân tâm si cuồng đau khổ quẫn trí mà lấy thì không tội.

3.       GIỚI TÀ DÂM

Trừ sự quan hệ nam nữ giữa vợ chồng, tất cả những sự quan hệ nam nữ không được pháp luật quốc gia hoặc đạo đức xã hội thừa nhận đều gọi là tà dâm.

Kinh Viên Giác nói:”Như các thế giới tất cả chúng sinh, loài sinh bằng trứng, loài sinh bằng thai, loài sinh bằng sự ẩm thấp, loài hóa sinh đều do dâm dục mà chánh tính mạng”. Đủ biết sự tồn tại của chúng sinh đều do dâm dục. Nếu muốn phàm phu chúng sinh đều đoạn dứt dâm dục, ấy là điều chẳng thể được. Chúng sinh tu chứng đến tam quả A na hàm mới dứt hẳn được dâm dục. Tu thiền định, nhập Sơ thiền trở lên mới phục được dâm dục. Chúng sinh Dục giới, dù đến cõi trời thứ sáu vẫn còn ở trong dâm dục, tại thế giới loài người rất khó ngăn tuyệt. Đức Phật thiết lập giáo pháp cố nhiên mong muốn tất cả chúng sinh đều ly dục, song đây là việc không thể hoàn toàn được. Vì thế, Ngài khéo bày phương tiện cho đệ tử tại gia sinh họat vợ chồng một cách chính đáng.

Thật ra, sự an lập của thế gian do sự hòa hợp nam nữ vợ chồng. Sinh hoạt vợ chồng bình thường chẳng mang đến bi kịch xã hội. Vấn đề quan hệ nam nữ bất bình thường tạo thành bi kịch xã hội. Nếu như mọi người đều an phận trong sinh họat gia đình một vợ một chồng, thì báo chí của chúng ta chẳng nêu lên những trường hợp như: Gian dâm bị giết, giết nhau vì tình, hiếp dâm, dụ dỗ, thông dâm, đồng lòng thông dâm phá hoại gia đình, v.v… Vì tạo thành sự hòa bình an lạc cho nhân gian nên Đức Phật chế định tà dâm cho nam nữ tín đồ tại gia.

Giới tà dâm đủ 4 điều kiện thành tội trọng bất khả hối:

1.               Không phải vợ chồng: Chẳng phải vợ chồng mình đã kết hôn.

2.       Có tâm dâm: Thích hành dâm như đói được ăn như khát được uống. Bằng không, phải như lưới sắt nóng quấn thân, hoặc cổ đeo tử thi sình thúi.

3.       Đúng chỗ là ở miệng, đường tiểu tiện (âm đạo) và đường đại tiện mà hành dâm.

4.       Sự toại: Tạo thành sự thật hành dâm. Hai căn (bộ sinh dục) của nam nữ tiếp xúc và nhập vào nhau một chút như hạt mè, thành tội trọng bất khả hối.

Nếu ngũ giới nam trừ vợ mình ra, đối với người nữ, chẳng phải người nữ, súc sinh cái ở ba chỗ (tức là miệng, âm đạo, đường tiểu tiện) hành dâm; hoặc đối với người dâm chẳng phải người nam, súc sinh đực và huỳnh môn (người bị thiến), hoặc người hai tánh âm dương bất toàn ở hai chỗ (miệng và đường đại tiện) hành dâm, người hai hình (có lúc biến thành nam có lúc biến thành nữ) phi nhân hai hình, súc sinh hai hình, ở ba chỗ hành dâm, phạm tội trọng bất khả hối. Hai thân hòa hợp mà chưa hành dâm, nửa chừng ngưng lại phạm tội trung khả hối. Trừ ba chỗ của nữ tánh, hai chỗ của nam tánh, ở các bộ phận khác hành dâm tội đều khả hối.

Trong lúc ngủ say, ba chỗ của nữ tánh, hai chỗ của nam tánh hành dâm cùng phạm tội trọng bất khả hối. Nơi ba chỗ của người nữ chết, hai chỗ của người nam chết mà hành dâm, nếu tử thi chưa hoại hoặc hơn phân nửa chưa hoại cũng phạm tội trọng bất khả hối. Nếu tử thi hoại phân nửa hoặc hơn phân nửa, hoại tất cả, cho tới chỉ còn bộ xương mà hành dâm, đều phạm tội hạ khả hối.

Trong Kinh Ưu bà tắc Ngũ Giới Tướng nói:”Nếu Ưu bà tắc cùng dâm nữ hành dâm không trả tiền, phạm tà dâm bất khả hối, trả tiền thì không phạm”. Đây là nói người nam tại gia thọ ngũ giới bỏ tiền ra hành dâm với dâm nữ chẳng phạm giới. Đây là do ở Ấn Độ, đối với quan hệ nam nữ rất tùy tiện, người nam bỏ tiền ra hành dâm với người nữ là việc thông thường, vì thế không cấm. Song, trong Đại thừa Bồ tát giới, nếu chẳng phải là Bồ tát Địa thượng (bậc Sơ địa trở lên) vì nhân duyên nhiếp hóa chẳng được có hành vi này. Trong quan niệm tập tục của người Trung Quốc hiện nay, hành vi bỏ tiền ra hành dâm với dâm nữ chẳng phải là gương tốt của các bậc thánh nhân quân tử. Chúng ta đã tin Phật, học Phật, lại là người đã thọ ngũ giới, ta cũng nên coi đó là tà dâm.

Người thời nay vì lý do ngừa thai hoặc phòng độc, có dùng bao cao su và vòng an toàn, tuy bộ sinh dục của nam nữ không tiếp xúc trực tiếp nhau, song cũng hưởng thụ được cái khoái lạc của hành dâm, nên nam nữ không phải là vợ chồng mà hành dâm cũng coi là đồng với tà dâm. Trong luật có ghi rõ : Bất luận có ngăn cách (như dùng bao cao su hoặc vòng an toàn ) hoặc một bên có ngăn cách, hoặc hai bên đều có ngăn cách, chỉ cần hai bộ sinh dục nhập vào nhau một chút như đầu sợi lông (cũng gọi là như hạt mè) tức thành tội trọng bất khả hối. Bất luận là làm bên trong xuất tinh bên ngoài, hoặc làm bên ngoài xuất tinh bên trong, đều phạm tội trọng bất khả hối.

Người nữ đem ba chỗ (miệng, âm đạo, đường đại tiện) thọ nhận người nam, chẳng phải người nam, súc sinh đực, người hai hình, phi nhân hai hình, súc sinh hai hình và huỳnh môn hành dâm mà có cảm thọ khoái lạc đều phạm tội trọng bất khả hối. Bất luận lúc ngủ hay lúc thức, cho đến bị sức mạnh cưỡng hiếp, ba chỗ thọ nhận hành dâm hễ có một niệm cảm thọ khoái lạc đều thành tội trọng bất khả hối. Người nữ do phiền não dâm dục, ở trên tử thi của người nam hành dâm, nếu tử thi chưa hoại hoặc hoại hơn phân nửa, phạm tội trung khả hối. Người nữ do phiền não dâm dục lợi dụng khí vật đút vào trong nữ căn (âm đạo) (người đời nay gọi là thủ dâm) cảm thọ khoái lạc, phạm tội hạ khả hối.

Có ngăn cách cùng không ngăn cách theo trên có thể biết.

Phạm giới đều tại nơi tâm, nếu như không có tâm tà dâm thì không chủ động đi phạm giới tà dâm, rủi bị cường lực cưỡng bức mà bị gian ô, nếu lúc đó không có chút cảm thọ khoái lạc thì không phạm giới. Điều này ở thời Đức Phật có mấy vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni đắc quả A la hán, hoặc nhân lúc ngủ say hoặc nhân trong bệnh khổ cũng bị dâm nữ hoặc bọn dữ hiếp dâm, nhưng vì A la hán đã ly dục nên hẳn là không thọ khoái lạc, vì thế chẳng phạm giới.

Do đó giới dâm cũng có khai duyên. Nếu bị oan gia bức bách mà không cảm thọ khoái lạc thì không phạm.

Phạm vi của tà dâm không những chẳng được cùng nam nữ ngoài vợ chồng phát sinh quan hệ không chính đáng, giả sử là vợ chồng cũng có sự hạn chế: Ngày kỷ niệm Phật, Bồ tát, mỗi tháng 6 ngày trai chẳng được hành dâm, ngày sinh nhật của cha mẹ, ngày chết của thân thuộc như cha mẹ, anh em, chị em v.v…chẳng được hành dâm. Trong thời kỳ kinh nguyệt, thời kỳ mang thai trước khi sinh, sau khi sinh chẳng được hành dâm ở chỗ khác.Trừ ban đêm ở trong phòng ngủ ra, chẳng được hành vào lúc khác, nơi khác. Tốt nhất là phải làm cho được điều này: Lúc con cái thành niên phải thực hành tiết dục; sau khi con cái được dựng vợ gả chồng, phải thực hành cấm dục.

Do đó, tội lỗi của tà dâm, phân làm 3 phẩm: Cùng với lục thân (mẹ con, chị em, cha con, anh em) hành dâm, là phạm thượng phẩm tội. Cùng tất cả nam nữ ngoài vợ chồng tà dâm là phạm trung phẩm tội. Cùng với vợ mình hành dâm chẳng phải lúc chẳng phải đạo là phạm hạ phẩm tội. Theo sự khinh trọng của ba phẩm này phân biệt bị đọa tam đồ. Nhưng trong tất cả giới tà dâm, phá phạm hạnh của người tịnh giới là tội nặng hơn hết. Người tịnh giới tức đệ tử Phật đã thọ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na, Sa di, Sa di ni, cho đến người thọ trì Bát quan giới trai, trong ngày trai của họ phá tịnh giới cũng gọi là ô phạm hạnh, song phải là lần thứ nhất phá. Nếu đã từng thọ giới, mà trước đã bị người khác phá hủy rồi sau lại cùng người hành dâm, thì chẳng thành tội phá giới tịnh giới mà là tội tà dâm. Nếu chẳng thọ ngũ giới lại phá tịnh giới của người khác, tuy chưa thọ Phật giới nên không có phạm giới tội, song vĩnh viễn không được cầu thọ tất cả Phật giới, vĩnh viễn bị bỏ ra ngoài biển lớn Phật pháp, vì thế gọi phá tịnh giới là Biên tội.

Giới tà dâm vốn cũng phiền toái, như chẳng được nói lời thô ác dâm dục và các chi tiết nhỏ nhặt phòng ngừa không thể kể hết, chỉ mong mọi người tự nhiếp tâm tự trọng. Thông thường, nam nữ đã kết hôn, đã có sinh hoạt bình thường của vợ chồng, trì giới tà dâm rất dễ.

4.       GIỚI VỌNG NGỮ

Vọng ngữ là lời nói dối trá thiếu thành thật. Ngày nay trong thế giới của chúng ta, xã hội của chúng ta, và ngay cả cá nhân chúng ta đều đầy dẫy sự vọng ngữ.

Thời cổ đại, vọng ngữ chỉ truyền trong một phạm vi giới hạn, người bị gạt chẳng đến nỗi nhiều. Nhân loại ngày nay có các phương tiện truyền thông như : báo chí, điện thoại, truyền thanh, truyền hình làm công cụ truyền bá, chỉ cần vận dụng khéo léo, thì sức mạnh của vọng ngữ không còn giới hạn, chỉ một lời nói dối cũng có thể dối gạt loài người toàn thế giới.

Sự vọng ngữ của thời xưa chỉ hạn cuôc nơi lời nói, ngày nay trừ ngôn ngữ tiếp xúc ra, còn có văn tự của kỹ thuật ấn loát mới phát minh sau này làm môi giới. Ngôn ngữ nói ra liền tiêu mất, văn tự chẳng những dối gạt người một thời, một nơi, mà còn tung hoành vượt cả thời gian và không gian nữa.

Chúng ta có thể nói chắc rằng: Mỗi ngày mở báo ra, trong báo có rất nhiều vọng ngữ, từ sự đàm thoại của người hiện đại đến sự quảng cáo của thương nghiệp, ai bảo chứng được ý hướng của họ có bao nhiêu phần chân thật? Đặc biệt là sự thêu dệt của báo chí dưới ngòi bút của ký giả, tuy chẳng nói là hoàn toàn bịa đặt, song có rất nhiều tình tiết đặt ra từ sự tưởng tượng và suy diễn của bộ óc thông minh của loài người

Vì thế ngày nay đề xướng giới trừ vọng ngữ là điều tuyệt đối cần kíp.

Trong Phật giáo, chia vọng ngữ ra làm 3 lọai: Đại vọng ngữ, tiểu vọng ngữ, phương tiện vọng ngữ. Trọng yếu hơn hết chính là phạm tội đại vọng ngữ. Đại vọng ngữ hội đủ 5 điều kiện, thành tội trọng bất khả hối:

Nói với người: Đối với người đại vọng ngữ.

Tưởng là người: Nhận định đối phương là người chứ chẳng phải là phi nhân hoặc súc sinh.

Có tâm dối gạt: Có ý muốn đối phương bị gạt.

Nói đại vọng ngữ: Tự mình chưa chứng thánh quả thánh pháp, mà tự nói đã chứng thánh quả, cho đến thật chưa đắc tứ thiền định lại nói đã đắc, thật chưa thấy thiên đến, long đến, thần đến, quỷ đến, mà nói thấy thiên đến, long đến, thần đến, quỷ đến.

5. Người đối diện hiểu: Đối phương hiểu được nội dung đã nói. Nếu như đối phương là người điếc, người si, người chẳng hiểu lời nói, và hướng về phi nhân, súc sinh nói đại vọng ngữ, chẳng phạm tội trọng.

Định nghĩa của vọng ngữ là không biết nói biết, biết nói không biết, không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, không hay nói hay, hay nói không hay, không nghe nói nghe, nghe nói không nghe.

Các cách vọng ngữ là tự vọng ngữ, bảo người vọng ngữ, sai sử vọng ngữ, viết thành văn tự vọng ngữ, hiện tướng vọng ngữ (hiện tướng lạ để gạt mọi người, thân làm oai nghi để biểu thị mình chẳng phàm phu, lại như im lặng nhận thầm, chỉ gật đầu ra dấu).

Hễ có tâm dối gạt người, bất luận dùng phương pháp nào khiến cho người bị dối gạt hiểu được, dù dối gạt có đạt được mục đích hay không (như cầu danh tiếng lợi dưỡng), đều phạm tội vọng ngữ.

Có ý tâng bốc lẫn nhau, như A nói B là thánh nhân, B nói A là thánh nhân, để mong được người thứ ba cung kính  cúng dường mà thật chẳng thánh nhân, cũng là tội đại vọng ngữ. Nếu như chẳng dùng đại vọng ngữ dối gạt người, tất cả sự dối gạt đều gọi là tiểu vọng ngữ. Nếu vì cứu độ chúng sinh, Bồ tát có thể làm phương tiện vọng ngữ, tỷ như kẻ say rượu muốn giết người, nếu thật thấy người kia lại nói gạt kẻ say rượu là không thấy thì không tội.

Đại vọng ngữ đầy đủ 5 điều kiện kể trên thành tội trọng bất khả hối. Tuy nói đại vọng ngữ mà ngôn từ chẳng rõ ràng, hoặc đối phương không hiểu, phạm tội trung khả hối. Hướng về súc sinh nói đại vọng ngữ phạm tội hạ khả hối. Muốn nói đắc quả A la hán, nói lầm đã đắc quả A na hàm, hễ tâm miệng chẳng hợp nhau, dù nói đại vọng ngữ khiến cho người hiểu, đều đã đắc tội trung khả hối. Nói thế gian vọng ngữ dối gạt người, đều phạm tội khả hối.

Trong vọng ngữ còn gồm có lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ; khi phạm, tuy chẳng mất giới thể nhưng phạm tội khả hối. Lưỡng thiệt là khiêu khích ly gián, đến người này nói người kia, đến người kia nói người này. Ác khẩu là nói những lời chê bai bươi móc, chửi rủa, nói mát, châm biếm, khắc nghiệt. Ỷ ngữ là những lời trau chuốt khiến người sa vào vòng trụy lạc, lời ca tình tứ, văn chương trữ tình, chuyện tiếu lâm, nói chuyện vô bổ, lời chẳng đúng nghĩa. Người thọ ngũ giới phải luôn luôn kiểm điểm, bằng không, phạm lỗi còn tự chẳng biết.

Trong giới vọng ngữ, trừ người chẳng biết hổ thẹn, chẳng hiểu nhân quả mới phạm đại vọng ngữ, thường thường dễ phạm nhất là tiểu vọng ngữ, khó ngăn nhất là ỷ ngữ, còn cơ hội phạm lưỡng thiệt và ác khẩu không nhiều lắm. Như có bốn người bạn họp lại một chỗ cao hứng cười nói, chắc chắn là họ có phạm tội ỷ ngữ (nếu như họ đã thọ ngũ giới). Vì thế, người tu hành phải nên “thủ khẩu như bình”.

Nam nữ tại gia phải hết sức chú ý đến vấn đề bình luận về đệ tử Phật, nhất là đối với người xuất gia. Người tại gia chẳng được nói lỗi xấu của người xuất gia, như thật có lỗi xấu, cũng chẳng được thấy người bèn nói. Nếu như không phải do chính mình thấy nghe, có tội chứng xác thực, mà chỉ nghe người ta nói, mình nói theo, hoặc nói càn người nào có phạm giới, người nói đó trước tiên phạm tội phỉ báng người không có căn cứ (thấy, nghe, nghi là ba căn cứ để chứng tội). Phỉ báng càng nặng, chính mình bị tội phỉ báng càng nặng.

Nhưng muốn dứt hẳn vọng ngữ phải sau khi chứng Sơ quả. Phàm phu thật khó giữ hoàn toàn thanh tịnh giới vọng ngữ, hễ biết kiểm điểm thì vừa phạm lỗi nơi miệng lập tức hối cải, mới có thể chẳng mất tư cách của người Phật tử học Phật.

5.       GIỚI UỐNG RƯỢU

Giới uống rượu là giới đặc biệt của nhà Phật. Từ ngũ giới cho đến Đại thừa Bồ tát giới cấm uống rượu. Tỳ kheo Tiểu thừa không giữ giới ăn thịt nhưng vẫn giữ giới uống rượu. Điều này ở Trung Quốc tình hình có chút bất đồng, có nhiều Phật giáo đồ ăn chay trường nhưng lại chẳng giữ giới rượu, họ cho rằng uống rượu có thể dưỡng sinh, họ quan niệm “uống rượu mà không cho say”, tham luyến vật trong ly, kỳ thật là hành vi phạm giới.

Bản thân của rượu vốn không gây tội ác, vì thế uống rượu là một giới duy nhất của ngũ giới thuộc giá giới. Nhưng vì sau khi uống rượu có thể tạo thành tội ác vì muốn ngăn ngừa nhân uống rượu tạo thành tội ác phạm giới, cho nên chẳng cho uống rượu. Uống rượu tuy chẳng chính là phạm tội, nhưng rượu lại hay khiến người phạm tội hơn hết, ba ly đổ vào bụng, do sự kích thích của chất men rượu khiến cho hệ thống thần kinh hưng phấn, mật to xung động, mờ mắt, mất đi sự khống chế của lý trí, có thể mắng người, đánh người, giết người, hiếp dâm, phóng hỏa v.v…

Trong kinh luật Đại thừa, Tiểu thừa đều chủ trương giới rượu, đồng thời có lưu truyền một sự tích như sau: Thời Đức Phật Ca Diếp Ba, có một người thọ ngũ giới luôn luôn trì giới thanh tịnh, một hôm, từ bên ngoài trở về nhà, quá khát nước, ông ta thấy trên bàn có một chén rượu màu trong như nước. Ông ta tưởng là nước, uống một hơi vào bụng, nào ngờ lúc tính chất rượu phát tác khiến ông ta phạm giới một cách liên tục. Thấy gà hàng xóm, ông ta bèn bắt trộm làm thịt ăn, vợ của hàng xóm mất gà sang tìm, thấy vợ người hàng xóm đẹp, ông liền cưỡng gian. Sau việc đó, bị bắt đến công đường, ông ta chối cãi không nhận tội. Vì uống nhầm một chén rượu mà ông ta liên tục phạm đủ 5 điều giới, tội ác của rượu rất là lớn vậy.

Vào thời Đức Phật còn tại thế, có một vị A la hán tên là Sa Dà Đà, thần lực của Ngài có thể hàng phục độc long, sau khi khất thực, Ngài nhận lầm chén rượu có màu nước do tín đồ cúng dường, uống xong, Ngài đi về bị say té ngã dọc đường. Đức Phật thấy bèn hỏi các đệ tử: “Sa Dà Đà trước kia có thể hàng phục độc long, bây giờ hàng phục con cóc có được không?”

Rượu là gì? Trong Tứ Phần Luật nói: “Rượu là rượu nước trái cây, rượu nếp, rượu đại mạch và các thứ rượu khác”.

Thế nào là phạm giới uống rượu? Trong Tứ Phần Luật nói: “Màu rượu, mùi rượu, vị rượu chẳng nên uống”. Trong Thập Tụng Luật nói: “Uống rượu thù tạc, uống rượu say hoặc men rượu hoặc hèm rượu, tất cả thứ nào có thể làm cho người say, hễ nuốt vào là phạm Ba dật đề. Nếu chỉ có màu rượu mà không có mùi rượu, vị rượu, không làm người say, uống không phạm”. Nhưng trong Tứ Phần Luật nói: “Không phạm như lấy rượu làm thuốc, lấy rượu rữa vết thương. Song phải do thầy thuốc dặn bảo, chứ chẳng được tự chủ trương giả danh lấy rượu làm thuốc mà hưởng sự thích thú uống rượu. Bằng không, thì uống vào phạm tội Khả hối”.

Tội báo của uống rượu rất đáng sợ, trong Tứ Phần Luật nói có 10 lỗi, lỗi thứ 10 là khi chết rồi đọa vào ba đường ác. Ngoài ra còn có 36 lỗi (Tứ Phần Luật và Kinh Phân Biệt Thiện Ác Báo Ứng có ghi). Đã biết rượu là món không nên uống, nhưng phải đủ ba điều kiện mới thành tội khả hối:

1.       Là rượu: Đồ uống làm cho người say.

2.       Tưởng là rượu: Biết rõ đồ uống làm người say.

3.       Vào miệng chẳng được cho một giọt dính môi, vào miệng nuốt xuống một hớp phạm tội khả hối.

Trên sự trì phạm của ngũ giới, một giới uống rượu rất là dễ trì, song muốn vĩnh viễn không phạm giới uống rượu cần phải đến bậc thánh A la hán mới có thể không phạm.

III. NGŨ GIỚI PHỐI VỚI THẬP THIỆN CỦA BA NGHIỆP

Nội dung của ngũ giới nói đến đây đại khái cũng đầy đủ. Thông thường có người đem Ngũ giới Thập thiện ra phân biệt giải thích, cũng có người cho thập thiện là thập giới. Nhưng trong Phật giới chưa sắp xếp thập thiện làm giới phẩm, như nói thọ giới là chỉ cho Sa di thập giới, nội dung của Sa di thập giới khác hẳn với thập thiện. Thật ra, thập thiện có thể bao hàm trong ngũ giới; vì thế, ngũ giới thập thiện thông thường được đặt liền nhau. Tu ngũ giới, thập thiện đồng được quả báo trời người. Thập thiện tức là sự phân hóa của ngũ giới, chứ không riêng có thập thiện, điều này có rất nhiều căn cứ trong kinh điển.

Nội dung của thập thiện là: Không sát sinh, không trộm cướp, không tà hạnh (cũng gọi là tà dâm, trong tà hạnh bao quát tất cả chỗ phóng dật của cảnh ngũ dục), không vọng ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu, không ỷ ngữ, lìa tham dục, lìa sân nhuế, lìa tà kiến. Phân loại mà nói, thập thiện thuộc ba nghiệp thân, ngữ, ý, cho nên cũng gọi là thập thiện nghiệp. Tu trì hạnh thập thiện là hạnh sinh vào đường lành, vì thế gọi nó là thập thiện nghiệp đạo.

Tiết thứ 2 điều thứ 4, lúc giảng về giới vọng ngữ đã nói một giới vọng ngữ là bao gồm 3 điều thiện: Không lưỡng thiệt, không ác khẩu, không ỷ ngữ; đủ biết ngũ giới thật đã khái quát 7 chi thiện giới của 2 nghiệp thân, ngữ của thập thiện; đến 3 chi tham dục, sân nhuế, tà kiến thuộc ý nghiệp, nếu chẳng nhờ sự biểu hiện của hai nghiệp thân, ngữ thì chẳng tạo tác thành thiện ác. Thật ra, 3 chi của ý nghiệp là do 7 chi của thân, ngữ nhiếp thọ; ý nghiệp chi phối 2 nghiệp thân, ngữ mà có tạo tác. Hai nghiệp thân, ngữ, nếu không có ý nghiệp làm chủ tể tạo tác, ác nghiệp được tạo cũng chẳng thành tội trọng, thậm chí còn vô tội. Vì thế, bàn đến ngũ giới tức là đã đầy đủ thập thiện… Nếu trái với thập thiện là thành thập ác, trái với ngũ giới là ngũ bất giới.

Sự phối hợp của ngũ giới với thập thiện đại khái có thể dùng hai biểu đồ sau đây để thuyết minh:

Hai biểu đồ trên cần phải nói rõ thêm một chút:

Trong biểu đồ thứ nhất, giới uống rượu phối hợp với ba chi của ý nghiệp là tham, sân, tà kiến dường như gượng ép. Thật ra không phải gượng ép đâu vì y theo Phật pháp nói rượu có phân ra sự tửu và lyù tửu. Phổ thông uống rượu là sự tửu, có hình thái vật chất; nhân vì tính chất của rượu làm cho người ta say sưa mất đi lý trí, vì thế phàm là hiện tượng tâm lý tham, sân, si cũng đều gọi là uống rượu, đó là lý tửu của vô minh phiền não, phải đợi đến sau khi thành Phật mới có thể vĩnh viễn không còn uống. Cho nên ba thứ ý nghiệp tham, sân, tà kiến này phối hợp với một giới uống rượu cũng không lầm.

Biểu đồ thứ hai đem ba thứ của ý nghiệp phối hợp với ngũ giới tuy có tính chất của Thập thiện mà lại chẳng phải hình thái của Thập thiện, vì trong chi mục của Thập thiện không có giới uống rượu. Nhưng đem ba thứ của ý nghiệp phối hợp với hành vi tạo tác cũa ngũ giới là tuyệt đối chính xác.

1.   Sát sinh có 3 thứ

a- Do tham dục mà giết, vì tham vị ngon của thịt, vì tham lợi nhuận mà sinh ra sự sát sinh bán thịt, vì tham giá cao hoặc vì đền đáp ân huệ mà sát sinh.

b- Do sân nhuế mà giết, vì báo cừu rửa hận, vì buồn thẹn phẩn nộ, vì trừ khử chướng ngại.

c- Do tà kiến mà giết, vì cầu phước báo, vì cầu công đức, vì cầu bình an, vì cầu phồn thịnh như là giết các loài súc sinh để tế thần cúng quỷ, thậm chí có dân tộc dã man bắt người chặt đầu để tế lễ tạ ơn thần linh.

Loại nghiệp sát này đều thuộc tri kiến tà ác cho nên gọi là Tà kiến sát.

2. Trộm cướp có 3 thứ

a- Tham dục trộm cướp: Thấy lợi quên nghĩa, vì cầu phát tài, vì cầu hưởng lạc, vì cầu sinh hoạt được tốt hơn, vì cầu thỏa mãn tâm tham.

b- Sân nhuế trộm cướp: Tật đố sự giàu sang của người khác, bất mãn người khác phát tài, hoặc vì báo thù người mà làm cho người bị tổn thất tài vật, hoặc vì bị kích thích, nhân đó mà phẩn nộ đến nỗi trộm cướp và làm tổn thất của người.

c- Tà kiến trộm cướp:  Vì cầu bình an, vì cầu nguyện vọng thành đạt; như trong lang tội, phụ nữ mới lấy chồng, hoặc phụ nữ lấy chồng lâu năm không có con, thích đến tự viện trộm cướp giày dép của người xuất gia và đồ cúng trang nghiêm ở điện Phật đem về nhà ép dưới gối ngủ, họ cho rằng làm như thế sẽ được sinh con trai, đây có thể coi là một loại tà kiến trộm cướp.

3. Tà dâm có 3 thứ

a- Tham dục tà dâm: Vì tham hưởng thụ khoái lạc dâm dục, bất luận là đồng lòng thông dâm, dụ dỗ thông dâm, hoặc hiếp dâm, cho đến mại dâm, vì thích khoái lạc dâm dục nên cùng với nam nữ ngoài vợ chồng sinh ra quan hệ dâm dục, đều gọi là tham dục tà dâm.

b- Sân nhuế tà dâm: Vì cừu oán gian dâm với mẹ, con, chị, em, vợ chính, nàng hầu của người. Tôi còn nhớ trong thời kỳ chiến tranh kháng Nhật, hễ vài người lính Nhật vào làng thường thường bị đội du kích Trung Quốc giết. Quân Nhật hay tin đem lính càn quét, thấy nhà liền đốt, đàn ông liền giết, thấy đàn bà con gái thì hãm hiếp hoặc luân phiên hãm hiếp, sau khi hiếp dâm rồi chém một nhát. Đây là một thứ sân nhuế tà dâm.

c- Tà kiến tà dâm: Vì cầu công đức, vì cầu phước báo, vì cầu con cái, vì cầu trường sinh, cho đến vì cầu giải thoát mà hành tà dâm. Thuở xưa có nhiều tôn giáo mê tín, như Đạo giáo của Trung Quốc có thuyết “Phòng Trung Thuật”, cho rằng lấy âm để bổ dương, lấy dương để bổ âm, nam nữ giao cấu là pháp tu luyện trường sinh bất lão. Tương tự, trong Ấn Độ giáo, quan điểm tà kiến này cũng cho rằng có thể giải thoát ở trong sự khoái lạc dâm dục giữa nam và nữ, nói là “tánh mạng song tu”,
“thân tâm song tu”. Còn có một thứ tà kiến là một số nam nữ kết hôn với nhau lâu năm không có con, có hành vi mượn thai mượn giống. Kỳ thật, muốn từ trong phương pháp phóng túng dâm dục để được trường sinh, thiền định, giải thoát, công đức, phước báo, con cái, ấy là việc tuyệt đối hoang đường.

4. Vọng ngữ có 3 thứ

a- Tham dục vọng ngữ: Vì tham danh tiếng lợi dưỡng, vì tham tửu sắc, thế lực.

b- Sân nhuế vọng ngữ: Vì là cho oan gia bị gạt, vì khiến cho người cùng phi nhân cho đến súc sinh não loạn mình và chướng ngại mình bị sự tàn hại cho nên vọng ngữ. Vì giận hờn mà ác khẩu và lưỡng thiệt là điều rất phổ biến.

  c- Tà kiến vọng ngữ: Cho rằng nói dối có thể tránh được nạn, mắng người có thể tiêu tai. Tỷ như người dân quê ở Trung Quốc khi cảm mạo có người dùng tờ giấy viết mấy chữ: Xuất mại trọng thương phong, nhất niệm tựu thành công” dán ở trên cây bên đường hoặc trên vách tường, ấy cũng là một loại tà kiến vọng ngữ.

5. Uống rượu có 3 thứ

a- Tham dục uống rượu: Vì muốn thỏa mãn cái miệng, cái bụng, tham sự kích thích của men rượu, vì cầu sự hưng phấn dẫn khởi cho sắc dục (uống rượu và người đẹp thường thường không thể tách rời nhau).

b- Sân nhuế uống rượu: Như nói: “Mượn rượu giải sầu”, người ta lúc phẫn nộ hoặc thất ý thường dùng rượu để giải sầu, kỳ thật, đâu phải không nghe nói “Mượn rượu để giải sầu càng thêm sầu” hay sao?

c- Tà kiến uống rượu: Vì cầu dưỡng sinh, vì cầu đắc đạo thành thần tiên, vì cầu sinh lên trời mà uống rượu. Tỷ như có một số người cho rằng uống rượu hữu ích cho rự tráng kiện. Có người cho rằng Lý Thái Bạch uống rượu rốt cuộc thành tửu tiên. Có tôn giáo cho rằng rượu có khả năng thông thần, trong các vị thần cũng có tửu thần. Ngoại đạo lõa thể ở Ấn Độ thậm chí cho rằng uống rượu giúp cho sự giải thoát. Những thuyết này đều là tà kiến, đều là kiến điên đảo. Tôi xin can quý độc giả. Quý vị thấy một người say rượu mặt đỏ gay, mắt đầy tia máu, mùi rượu nực nồng, quý vị có cảm tưởng gì? Cho là đáng ghét hay đáng yêu?

Ngũ giới phối hợp thập thiện, đã thuyết minh như trên, sau khi hiểu rõ nội dung của ngũ giới, chúng tôi có thể giới thiệu về sự nạp thọ giới thể của ngũ giới như thế nào ở chương sau.

Chương 2: Phương Pháp Cầu Thọ Ngũ Giới Và Công Đức

I.  NẠP THỌ NGŨ GIỚI NHƯ THẾ NÀO?

Thiên trước đã nói người thọ tam quy rồi, nếu muốn tiến thêm một bước để được sự lợi ích thiết thực của sự tin Phật học Phật, cần phải cầu thọ ngũ giới mới được coi là bất đầu học điều Phật học, hành điều Phật hành. Quy y Tam bảo chỉ là vào cổng thôi, nếu như sau khi vào cổng, dừng chân ở dưới hành lang mà không lên nhà trên, không vào phòng ốc, không lên lầu tham quan, không lên mỗi tầng cho đến tầng cao nhất, thì chỉ có thể coi là đệ tử Tam bảo kiểu “tài tử” (không chuyên nghiệp), ngày nay gọi là “nghiệp dư”. Do đó, xin khuyên người đã quy y Tam bảo tốt nhất là nên thọ ngũ giới để thành người Phật tử tại gia đúng tiêu chuẩn (Ưu bà tắc và Ưu bà di). Nghe thuyết Phật pháp có thể kiến đạo, thọ trì ngũ giới có thể chứng đạo, cao nhất là chứng được tam quả A na hàm, tiến vào vị Bất hoàn, sinh lên Tịnh cư thiên tu thành quả A la hán. Vì thế, công năng của ngũ giới ít nhất là bảo đảm được sinh lên loài người, loài trời, cao nhất là làm chiếc bè báu vượt khỏi biển cả sinh tử. Đã tin Phật học Phật sao chẳng cầu thọ ngũ giới? Nếu chăng thọ ngũ giới mà chỉ thọ tam quy là chẳng phải chân thật Ưu bà tắc (Kinh Tỳ Ni Mẫu quyển 1).

Nhưng nếu chăng biết nội dung của ngũ giới, thì tuy thọ giới cũng không đắc ngũ giới. Vì thế trước tiên nói về ý nghĩa và nội dung của ngũ giới, nay đã hiểu đại khái rồi, có thể cầu thọ ngũ giới.

Song, việc cầu thọ ngũ giới cũng chẳng giản đơn. Căn cứ quy định của Kinh Ưu bà tắc giới, cần phải thọ tam quy từ 6 tháng trở lên, sau khi đã khảo hạch về tư cách rồi mới chấp nhận truyền cho ngũ giới. Cũng có người chủ trương sau khi quy y phải có 3 năm hoặc 1 năm, ít nhất là 4 tháng, mới nhận thọ ngũ giới. Nhưng thời Đức Phật còn tại thế, đệ tử tại gia sau khi tin Phật, tam quy ngũ giới được thọ tiếp liền theo nhau. Tỷ như người đệ tử Ưu bà tắc đầu tiên của Đức Phật là cha của Da Du Già, sau khi tin Phật bèn nói như vầy: “Con quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, cúi xin Thế Tôn cho con được làm Ưu bà tắc. Từ nay về sau cho đến suốt đời con không sát sinh cho đến không uống rượu”. (Tứ Phần Luật, Kiền Độ Thọ Giới, phần II). Nhân đây đủ thấy sau khi thọ tam quy không cần phải trải qua thời gian 4 tháng, 6 tháng cho đến 3 năm. Nhưng cũng có người nói thời Phật con người lợi căn đâu có thể như vậy. Trên thực tế, thông thường chúng ta không xét đến vần đề này. Có người quy y Tam bảo mà không cầu thọ ngũ giới; có người vừa vào cửa Phật, gặp được cơ hội truyền giới bèn thọ Tam quy ngũ giới một lượt. Điều này tại nước Thái Lan có sự bất đồng, đệ tử tại gia người Thái, nhằm ngày vía Phật, mỗi lần họ vào tự viện đều thọ Tam quy ngũ giới. Tôi nghĩ, ấy là làm cho giới phẩm càng kiên cố, chứ chẳng phải vì mất giới mà thọ lại. Điều này, Trung Quốc cũng nên bắt chước, bởi nó có quan hệ với sự tu trì pháp lục niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên. Lục niệm phải thường niệm, vì thế tam quy ngũ giới phải thường thọ trì.

Theo trong Luật nói về thọ ngũ giới đều hướng về thầy nói (như cha của Da Du Già) chẳng phải nói theo sự hướng dẫn của thầy. Như muốn thành ngũ giới Ưu bà tắc hoặc ngũ giới Ưu bà di, chỉ cần hướng về một vị A xà lê nói một lần là được, không có phô trương nghi thức nào hết. Nhưng các tổ sư Trung Quốc như Đại sư Độc Thể cho rằng: “Hiện nay đương thời mạt pháp khác xa với thời đức Phật, cần phải nhờ thánh duyên giúp cho sinh chánh tín” (Tam Quy Ngũ Giới Bát Giới Chánh Phạm), vì thế Ngài biên soạn một bộ Tam Quy Ngũ Giới Bát Giới Chánh Phạm đến nay vẫn là bộ sách căn cứ cho sự truyền thừa giới pháp của Phật giáo Trung Quốc thời cận đại lúc giới pháp chẳng thịnh hành.

Sự truyền thọ giới pháp có nhiều thuyết bất đồng. Có thuyết nói: Có thể tự nói, tự thọ. Có thuyết nói: Có thể hướng về người chẳng phải Phật tử thọ (như trong Kinh Phật Thuyết Tiêu Tai, có vợ của một con quỷ ăn thịt người, nói tam quy ngũ giới cho con quỷ ăn thịt người nghe, quỷ ấy thọ trì đắc giới). Có thuyết nói: Có thể ở trước năm chúng xuất gia (Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na, Sa di, Sa di ni) thọ; cho đến chỗ không có người xuất gia, có thể hướng về người bạch y (cư sĩ) thọ ngũ giới. Có thuyết cho rằng cần phải có nghi thức ít nhất cũng phải được ở trước một vị Thượng tọa Tỳ kheo thọ. Ý kiến chiết trung hơn hết là có Thượng tọa trưởng lão Tỳ kheo, phải hướng về trưởng lão Tỳ kheo thọ. nếu không có, phải hướng về một vì Tỳ kheo thanh tịnh thọ. Nếu không có Tỳ kheo thanh tịnh, có thể hướng về Thức xoa ma na thanh tịnh thọ (Phật giáo Trung Quốc không có chúng này). Nếu không có Thức xoa ma na thanh tịnh, có thể hướng về Sa di thanh tịnh. Nếu không có Sa di thanh tịnh, có thể hướng về Sa di ni thanh tịnh thọ. Nếu không có Sa di ni thanh tịnh, có thể hướng về bạch y cho đến chẳng phải đệ tử Phật và chúng sinh loài khác mà thọ.

Hiện tại ở Trung Quốc vâng còn rất nhiều Tỳ kheo, ngũ giới phải nên ở trước Tỳ kheo thọ.

Tùy phần thọ và toàn bộ thọ ngũ giới cũng có những thuyết bất đồng. Trong phẩm thọ giới của Kinh Ưu bà tắc giới nói: “Nếu thọ tam quy rồi, thọ trì hai giới gọi là thiểu phần. Đã thọ tam quy, thọ trì hai giới rồi, nếu phá một giới gọi là vô phần. Nếu thọ tam quy, thọ trì 3, 4 giới gọi là đa phần; thọ trì đủ ngũ giới gọi là mãn phần (vì giới do tâm quy mà đắc, cho nên đều có nói tam quy). Đây là cho phép tùy phần thọ trì ngũ giới, song phải xem năng lực của mỗi người có thể thọ bao nhiêu giới thì cho thọ bấy nhiêu, chẳng nên ép buộc họ, vì hễ thọ rồi, nếu phá một giới gọi là vô phần”. Thật ra, nếu trì ngũ giới, hễ phá một giới cũng gọi là vô phần. Nếu như chỉ trì một giới kiên trì không phạm, được gọi là nhất phần Ưu bà tắc hoặc Ưu bà di. Nhưng, trong Tát Bà Đa Tỳ Ni Bà Sa quyển 1 nói về Tùy phần thọ giới, ý kiến lại bất đồng. Hỏi: “Người thọ Ưu bà tắc giới giả sử chẳng thể thọ đủ 5 giới cho đến 4 giới, có đắc giới chăng?”. Đáp: “Không đắc”. Hỏi: “Nếu không đắc tại sao có kinh nói có thiểu phần Ưu bà tắc, đa phần Ưu bà tắc, mãn phần Ưu bà tắc. Nghĩa này như thế nào?”. Đáp: “Sở dĩ như thế là có ý nói công đức trì giới nhiều ít, chứ chẳng phải nói có pháp thọ giới như thế”. Thật ra, trong các bộ Quảng Luật khó tìm ra căn cứ của sự có thể tùy phần thọ trì ngũ giới, đệ tử tại gia của thời Đức Phật còn tại thế phàm thọ ngũ giới đều nói như vầy: “Từ nay trở đi suốt đời không sát sinh cho đến không uốn rượu”. Nhưng, tùy phần thọ trì ngũ giới lại được đa số Tỳ kheo chủ trương. Đại sư Hoằng Nhất ở thời cận đại cũng có nói trong quyển Luật Học Yếu Lược: “Nếu không thọ được hoàn toàn thì thọ một hoặc hai hoặc ba hoặc bốn điều có thể tùy ý. Thà có thể chẳng thọ, chứ không nên thọ mà không trì”. Đây thật là xuất phát từ tấm lòng từ bi muốn hộ trì giới pháp. Ngày nay chúng ta cũng chẳng ngại gì theo chủ trương của Kinh Ưu bà tắc giới để cho người thọ giới đối với giới pháp có tâm trang nghiêm đúng đắn. Bằng không thì lạm truyền giới pháp. Chẳng những không đề xướng được tinh thần của giới luật mà còn đem giới pháp làm theo nhân tình khiến cho mất hết sự trang nghiêm. Theo Đại sư Hoằng Nhất nói: “Trong ngũ giới, dễ trì hơn hết là không tà dâm, không uống rượu, quý vị nên thọ hai giới này trước là ổn đáng nhất”.

Thời hạn thọ trì ngũ giới cũng có nhiều thuyết bất đồng. Trong Luật Thành Thật nói: “Ngũ giới, bát giới tùy ngày tháng dài ngắn, hoặc một năm, một tháng, cho đến nửa ngày, nửa đêm”. Điều này có thể tìm căn cứ ở trong bộ Quảng Luật. Thập Tụng Luật quyển 25 có ghi chép một câu chuyện như sau: “Có một người tên Ức Nhĩ đi tìm châu báu ở ngoài biển cả thoát hiểm trở về. Một đêm trên đường về, người ấy ngủ dưới một gốc cây to, thấy có một cái giường xuất hiện, người nam xuất hiện, người nữ xuất hiện, hai người đều xinh đẹp và mặc áo tốt cùng nhau hưởng lạc. Song đến khi trời sáng, chiếc giường biến mất, người nữ mất, có bầy chó lại ăn thịt người nam này, hết thịt còn trơ xương. Đêm thứ hai cũng vậy. Ức Nhĩ hỏi ra mới biết người nam kia lúc còn sống làm nghề đồ tể, ban ngày sát sinh tạo tội không rảnh làm thiện. Sau đó Tôn giả Ca Chiên Diên dạy anh ta: “Ban đêm thọ ngũ giới có thể được chút thiện”. Tiếp theo đó, ban ngày, Ức Nhĩ ở dưới cội cây to, thấy có hai giường xuất hiện, người nam xuất hiện, người nữ xuất hiện; cho đến chiều tối, thấy hàng trăm con trùng xuất hiện ăn thịt người nam này, thịt hết còn trơ xương. Ức Nhĩ hỏi ra mới biết người nam này lúc còn sống tà dâm với vợ người khác, đam mê khoái lạc chẳng tự ức chế. Sau đó Tôn giả Ca Chiên Diên dạy anh ta ban ngày thọ ngũ giới có thể được chút thiện. Đây nói ngũ giới có thể một ngày thọ, một đêm thọ, có thể chỉ thọ ban ngày hoặc chỉ thọ ban đêm, chỉ cần thọ rồi là có công đức, là có thiện báo. Nhưng trong Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa quyển nói: “Nếu thọ ngũ giới phải suốt đời thọ”. Trong Tứ Phần Luật cũng chủ trương ngũ giới phải thọ suốt đời đến già chết mới thôi, thọ một lần là vĩnh viễn thọ. Nhưng có một giải thích chiết trung: Giới có pháp thọ cũng có pháp xả, thọ rồi lại xả, xả rồi lại thọ cũng được. Sau khi thọ giới cần phải trì giới. Nếu như xả giới, tuy làm nghiệp ác cũng không có phạm tội giới mà công đức trì giới trước kia vẫn còn. Do đó, chúng thọ ngũ giới nên nghĩ tưởng là suốt đời. Nếu chẳng trì được thì tùy thời có thể xả từng giới hoặc xả toàn bộ. Trong Luật Tát Bà Đa nói: Gặp nhân duyên ác bức bách muốn xả giới, không cần ở trước 5 chúng xả, xả trước một người cũng được. Muốn xả giới, tùy thời tìm người hiểu được lời mình nói, nói một lần “Tôi xả giới nào đó”, liền thành xả giới. Như sau khi xả muốn thọ giới lại cũng không khó. Trong bộ Nghĩa Sao có nói nếu tự nhiên tâm muốn sắp phạm giới, thà nên xả về sau sám hối thọ lại cũng được. Theo đây có thể biết thời hạn ngắn dài của sự thọ ngũ giới chẳng phải là vấn đề nghiêm trọng, chỉ cần hiểu rõ quy cũ đạo lý của thọ và xả mà làm là được.

Trước khi thọ ngũ giới, cũng có sự hạn định về tư cách. Trong Luận Tát Bà Đa quyển 1 nói: “Phàm đắc Ba la đề mộc xoa giới, trung ngũ đạo (trời, người, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục) chỉ có loài người đắc giới”. Lại nói: “Tuy trong kinh có nhiều chỗ nói rồng thọ trai pháp…, thọ công đức lành, song chẳng đắc trai”. Từ ngũ giới cho đến Bồ tát giới gọi là Ba la đề mộc xoa, dịch nghĩa là: Biệt giải thoát; trì một giới có công đức giải thoát của một giới; biệt biệt trì, biệt biệt giải thoát, cho nên gọi là Biệt giải thoát giới. Trừ loài người ra, chúng sinh ở các loài khác đều chẳng thể đắc giới. Nhưng nói theo Đại thừa Bồ tát giới, chúng sinh trong ngũ đạo, chỉ trừ địa ngục, người thọ giới hiểu được lời nói của Pháp sư tất cả đều đắc giới. Trong các bộ Luật cũng đều có ghi chép Long vương thọ ngũ giới và thiên nhân thọ ngũ giới, nhưng điều này không quan trọng lắm so với loài người chúng ta.

Điều quan trọng ở trong loại người là cũng có người không đủ tư cách cầu thọ ngũ giới, đó là người phạm tội ngũ nghịch và tự phá tịnh giới hoặc phá tịnh giới của người khác. Người làm Ngũ giới A xà lê (Quỹ phạm sư) trước khi truyền giới cho người phải hỏi rõ có phạm tội ngũ nghịch không? Có tự phá tịnh giới hoặc phá tịnh giới của người khác không? Nếu như chẳng hỏi mà truyền, người thọ giới cần thọ giới, tuy cầu giới cũng không được đắc giới.

Tội ngũ nghịch là giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu. Trên thực tế trong tội ngũ nghịch người thế tục ngày nay chỉ có thể phạm hai tội ngũ nghịch là giết mẹ và giết cha. Không được sống đồng thời với Phật, vì thế không thể làm thân Phật chảy máu được (trong Phật giáo sử chỉ có một người là ông Đề Bà Đạt Đa phạm tội này). Người đời không thể phá Tăng, phá Tăng có hai thứ: Phải có tám thầy Tỳ kheo hoặc Tỳ kheo ni trở lên mới có thể phá yết ma Tăng. Phải có chín thầy Tỳ kheo trở lên, một người tự xưng là Phật, mới có thể phá chuyển pháp luân Tăng. Người nữ cũng không thể pháp Pháp luân tăng, nhân vì người nữ cũng không thể ngay nơi thân này thành Phật, vì thế không thể tự xưng là Phật (Trong Phật giáo sử chỉ có một người là ông Đề Bà Đạt Đa phạm tội ngũ nghịch phá chuyển pháp luân tăng). Vào thời mạt pháp rất khó có A la hán xuất thế, muốn giết các Ngài đâu phải là việc tầm thường!

Tự phá tịnh giới và phá tịnh giới của người khác là việc có thể xảy ra. Sau khi thọ giới phạm tội trọng bất khả hối gọi là tự phá tịnh giới. Người khác trì giới mà lần đầu tiên làm cho người ấy phá giới, gọi là phá tịnh giới của người. Điều này ở trên đã có nói.

Theo quy cũ, ngũ giới, bát giới đều phải thọ riêng từng người, chẳng được thọ tập thể đông người, nhưng trường hợp truyền giới hiện nay phần nhiều là tập thể. Xét về lý do của sự thọ riêng từng người là vì muốn cho tâm chẳng duyên bên ngoài, trong khung cảnh yên tĩnh thì sự khai đạo của Giới sư và nạp thọ giới thể tam quy ngũ giới có thể được nhất tâm nhất ý, thọ đắc thượng phẩm giới thể. Bằng không, người đông đảo ồn ào, tâm chẳng yên tịnh cũng chẳng chuyên nhất ấy là sai rồi, thậm chí không thể đắc giới. Do đó, giới phẩm phân làm thứ hạng:

1. Nếu ngay lúc thọ giới, vừa nghe pháp ngữ của Giới sư tâm liền khai thông phát, tâm rộng lớn tối thượng duyên khắp pháp giới tất cả hữu tình vô tình, đều nguyện đoạn trừ tất cả tội ác, đều nguyện tu trì tất cả thời hạnh, đều nguyện rộng độ tất cả chúng sinh, đắc thượng phẩm ngũ giới.

2. Nếu ngay lúc thọ giới, tuy nghe Giới sư khai đạo cùng duyên tất cả cảnh hữu tình, vô hình, song tâm nguyện không lớn, chỉ cần tự thoát sinh tử, hoàn toàn không có tâm độ chúng sinh, đắc trung phẩm ngũ giới.

3. Nếu ngay lúc thọ giới cũng nghe Giới sư khai đạo hoặc vì tánh trí kém cỏi hoặc vì tâm ý tán loạn cho nên duyên cảnh chẳng khắp, chỉ đắc giữ gìn giới tướng không thể phát huy công dụng của giới thể, đắc hạ phẩm ngũ giới.

Nếu như tâm ý tán loạn, hoặc giả nghe không rõ lời của Giới sư, hoặc giả nghe như không nghe không biết gì hết, chỉ theo chúng quỳ xuống đứng lên, như thế chỉ có gieo căn lành nhưng không đắc giới. Nhưng lúc truyền ngũ giới tập thể, tình hình này xảy ra rất nhiều. Vì thế nếu có phương tiện, tốt nhất là nên thọ giới riêng từng người.

Căn cứ vào việc bộ Ngũ Giới Chánh Phạm của Đại sư Độc Thể biên soạn gồm có mười mục nghi tiết trừ nội dung bất đồng, còn phương thức tương tợ với nghi tiết thọ tam quy. Mười mục nghi tiết như sau:

1.   Trải tòa thỉnh sư: Do người xuất gia đã rành nghi thức chỉ dẫn.

2. Giới sư khai đạo: Giới sư diễn nói về ý nghĩa của ngũ giới, nói về tính cách trọng yếu của việc thọ ngũ giới đối với sự tin Phật, học Phật.

3. Thỉnh Thánh: Phụng thỉnh Phật, Pháp, Hiền Thánh Tăng chưng minh thọ giới; phụng thỉnh Phạm Thiên, Đế Thích, Hộ pháp, quỷ thần giám đàn hộ giới.

4. Sám hối: Sám trừ tất cả tội nghiệp từ vô thỉ đến nay để cầu thân tâm thanh tịnh nạp thọ giới thể, đổi mới con người cũ (Phật cũng từ trong loài người mà thành Phật).

5. Vấn giá nạn: Hỏi người thọ giới trong đời này, từ trước đến nay có tạo những tội lỗi lớn mà Phật pháp chẳng chấp nhận chăng? Nếu có làm tức thành giá chướng khó được thọ giới, cho nên gọi là giá nạn. Đại sư Độc Thể nêu ra 7 điều cũng là tội nghịch, đoạn trên tôi đã nói và thêm vào sự triển khai tội phá tịnh giới “(1) Trộm vật của chúng Tăng. (2) Hành dâm với nam nữ trong lục thân. (3) Phá phạm hạnh của Tăng Ni. (4) Lúc cha bệnh bỏ đi chẳng ngó ngàng. (5) Lúc mẹ bệnh bỏ đi chẳng ngó ngàng. (6) Lúc Sư trưởng bệnh bỏ đi chẳng ngó ngàng. (7) Giết hại chúng sinh phát tâm Bồ đề.

6. Thọ tam quy: Ngũ giới lấy lúc truyền đọc văn tam quy tức là nạp thọ giới thể, tam quy tam kết cùng với tam nghi tam quy tương đồng.

7. Khuyên giới tướng: Trước tiên hỏi người thọ giới có thể trì được bao nhiêu phần giới, sau đó tuyên đọc giới tướng của ngũ giới suốt đời không sát sinh cho đến không uống rượu. Mỗi giới đều đáp rõ trì được hay không (nhưng trong khoa văn dường như làm chuyên vì người mãn phần thọ mà làm).

8. Phát nguyện: Khai thị người thọ giới phát đại Bồ đề tâm.

9. Khuyến chúc: Khuyến cáo người thọ giới đã phát tâm thọ giới, phải nên y theo lời dạy vâng làm.

10. Hồi hướng: Đem công đức thọ giới này hồi hướng pháp giới chúng sinh.

Đối với nghi thức truyền thọ ngũ giới, Đại sư Độc Thể có nói trong điều lệ quy giới: “Nay theo nghi thức của bộ Chánh Phạm này, phải ở trước vị Trưởng lão Tỳ kheo thọ”. Lại, vì vị Trưởng lão trong chùa đều là Phương trượng Hòa thượng, cho nên đối với Giới sư không gọi là A xà lê mà gọi là Hòa thượng, đến như “Nếu là Trưởng lão chưa từng thống lãnh chúng, không nhận chức Phương trượng, hoặc hai ba vị đồng tu, hoặc ở một mình không có bạn, nếu bỗng gặp thiện tín phát tâm đến cầu giới, cũng có thể khai đạo và cho thọ giới. Phát nguyện mà thôi, còn các mục khác chẳng cần dùng hết”.

Từ nội dung của nghi thức thọ giới do Đại sư Độc Thể biên soạn, chúng ta thấy từ tam quy đến Bồ tát giới đều là dùng quy mô của Đại thừa giới. Thật ra, trong Kinh Ưu bà tắc Giới cùng với ngũ giới phổ thông chẳng hoàn toàn giống nhau. Đây là điều mà Đại sự Ngẫu Ích cuối đời nhà Minh và Đại sư Thái Hư của thời cận đại đều có bàn đến. Đương nhiên, nếu có thể cho làm được tất cả giới toàn bộ chuẩn theo Đại thừa Bồ tát giới, đó là điều rất tốt, không có lỗi lầm gì. Song vì căn cơ và hoàn cảnh bất đồng nên bất tất phải làm cho mọi người một khi vào cửa Phật đều muốn họ thành bậc đại Bồ tát thực hành đạo Bồ tát được.

Đại sư Ngẫu Ích biên tập phương pháp thọ ngũ giới đơn giản rõ ràng thực tế hơn, tôi xin phép lại như sau để cùng tham khảo:

Con là … quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, suốt đời làm (nhất, hoặc thiểu, hoặc đa, hoặc mãn) phần Ưu bà tắc, Như Lai chí chân Đẳng chánh giác là Thế Tôn của con (3 lần).

Con là … quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi, suốt đời làm (nhất, hoặc thiểu, hoặc đa, hoặc mãn) phần Ưu bà tắc, Như Lai chí chân Đẳng chánh giác là Thế Tôn của con (3 lần).

Nếu là thiện nữ thì xưng là Ưu bà di.

Như chư Phật suốt đời không sát sinh, con là … suốt đời cũng không sát sinh.

Như chư Phật suốt đời không trộm cướp, con là … suốt đời cũng không trộm cướp.

Như chư Phật suốt đời không dâm dục, con là … suốt đời cũng không tà dâm.

Như chư Phật suốt đời không vọng ngữ, con là … suốt đời cũng không vọng ngữ.

Như chư Phật suốt đời không uống rượu, con là… suốt đời cũng không uống rượu.

Đem công đức thọ giới này hồi hướng vô thượng Bồ đề, bốn ân đều báo, ba cõi đều nhờ, cùng khắp chúng sinh đồng sinh tịnh độ.

Người tại gia thọ ngũ giới vốn là việc rất phổ thông, chỉ cần đối trước một vị Giới sư (tiếng Phạn gọi là A xà lê) có thể tự nói mà thọ. Nếu như mình không biết cách thọ và nội dung của ngũ giới, thỉnh Giới sư chỉ dạy lời thọ giới cũng được. Thời gian gần đây mọi người đều coi việc truyền ngũ giới là một đại Phật sự; bày biện phô trương làm nhọc Giới sư và làm động chúng. Điều này tuy làm trang nghiêm cho giới pháp, nhưng lại đem giới pháp nhận chìm trong hình thức rườm rà vô ích.

Do đó, tôi hy vọng Phật giáo Trung Quốc ngày nay đề nay đề xướng cách truyền thọ ngũ giới phổ biến, trừ trường hợp có tính cách tập thể, cần phải tham khảo Ngũ Giới Chánh Phạm của Đại sư Độc Thể, ngoài ra đều có thể bỏ bớt những tiết mục rườm rà. Tôi xin đề nghị một nghi thức thông thường thọ ngũ giới có 5 tiết mục như sau:

1. Thỉnh sư khai đạo nội dung ngũ giới (nói chỗ trọng yếu), dạy người thọ ngũ giới nói lời phát nguyện thọ giới (nếu người thọ giới đã biết, khỏi phải dạy).

2. Vấn giá nạn (thông thường chỉ hỏi giết cha, giết mẹ, tự phá tịnh giới và phá tịnh giới của người khác là được)

3. Tam quy tam kết (theo nghi thức của Đại sư Ngẫu Ích ở đoạn trên).

4. Tuyên đọc hoặc tùy phần tuyên đọc giới tướng ngũ giới (theo nghi thức của Đại sư Ngẫu Ích đã nêu ở đoạn trên).

5. Phát nguyện hồi hướng (Dùng kệ hồi hướng thông thường cũng được, hoặc mỗi người tự bạch vài lời phát nguyện của mình cũng được).

Một lần thọ giới mất thời gian tối đa không quá 15 phút. Thọ ngũ giới giản đơn như thế so với trường hợp bày biện lớn lao thì thực tế và dễ đắc giới hơn. Đồng thời, Giới sư cũng có thể trong một ngày truyền giới riêng cho nhiều người mà chẳng mất sức khỏe, và cũng có thể tùy chỗ, tùy nơi mà truyền giới cho người.

II. CÔNG ĐỨC CỦA SỰ THỌ TRÌ NGŨ GIỚI

Nói đến giá trị cứu cánh của Phật giáo là nói đến “Tam luân thể không”, nghĩa là người làm, công việc được làm, tác dụng do việc làm sinh ra, cả ba hoàn toàn không, chẳng chấp có không, mới là mục đích cuối cùng của sự học Phật. Vì thế tất cả thiện hạnh tự không có công đức để nói. Nhưng tại phàm phu mà nói, muốn làm đến một bước công phu này chẳng được; bằng không, người đó đã chẳng phải là phàm phu.

Người đi thuyền mục đích không phải là ở tại đi truyền, nhưng đi thuyền cốt làm cho người ta đạt đến mục đích họ mong muốn, thuyền chỉ là công cụ mà thôi. Cũng vậy, người thọ ngũ giới mục đích không phải ở tự bản thân của sự thọ giới, nhưng thọ giới lại khiến cho người ta đạt đến mục đích của sự học Phật, giới chỉ là phương tiện mà thôi. Từ trong pháp thế gian lợi dụng công cụ hoặc lợi dụng phương pháp, ắt hẳn sẽ sinh ra được lợi ích hoặc tội lỗi. Thọ ngũ giới là phương pháp làm thiện, cho nên cũng chắc chắn sinh ra công đức.

Tu trì ngũ giới thập thiện, nếu phát tâm xuất ly có thể do đây chứng được Sơ quả cho đến Tam quả (Tứ quả cần phải xuất gia), như Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da quyển 1 có ghi: Tỳ kheo Tiểu Lộ khéo dùng thí dụ nói nửa bài tụng về pháp thập thiện, nói chưa xong nửa bài tụng thì trong chúng liền có một vạn hai ngàn hữu tình xa lìa trần cấu đắc pháp Nhãn tịnh, mắt thấy chân đi, hoặc đắc Noãn pháp, cho đến hoặc có người nhân đây xuất gia rồi chứng quả A la hán. Do đó mà biết ngũ giới thập thiện là bước đầu học Phật và cũng do đây mà bước vào lĩnh vực Thánh Hiền liễu sinh thoát tử.

Nếu chỉ cầu phước báo nhân thiên, hoặc người có sức trì giới bạc nhược, cũng có thể nhân đây chẳng bị đọa tam đồ, cuối cùng nhân duyên thành thục, phát tâm xuất ly vượt ra tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới). Nếu như toàn bộ ngũ giới không thể thanh tịnh, chỉ kiên trì được một giới cũng có thể giữ được thân người. Sự trì giới nhiều ít và giới lực mạnh yếu (chỉ cho đối với tội khinh khả hối trì phạm nhiều ít mà nói), có thể quyết định sau khi bỏ một thân này sinh vào cảnh giới nhân thiên. Cao nhất của trì ngũ giới là có thể sinh lên cõi trời thứ sáu (theo thứ tự kể xuống), ít nhất cũng có thể làm một thân người bình thường. Nếu muốn lên trời Sắc giới cho đến cõi trời Vô sắc giới phải tu thiền định đạt đến sơ thiền trở lên mới có thể tiến vào cõi trời Sắc giới. Đồng thời, Sắc giới, Vô sắc giới chẳng do ngũ giới được, mà phải do thiền định tiến thủ. Vì thế ngoại đạo chẳng trì Phật giới, nếu như công phu thiền định đủ cũng có thể tiến vào cõi trời Sơ thiền trở lên. Từ trong Kinh luật chúng ta thấy công đức tu phước báo nhân thiên, hơn phân nửa là sinh lên cõi trời Tứ Thiên Vương và cõi trời thứ Ba mươi ba (Đao Lợi).

Nhưng từ trên quan điểm Phật pháp mà nói, sinh lên trời không tốt bằng sinh lên tại nhân gian. Tuổi thọ ở cõi trời từ cõi trời Tứ Thiên Vương trở lên, mỗi tầng mỗi nhiều hơn. Trời Tứ Thiên Vương lấy 50 năm của nhân gian làm một ngày, bình quân tuổi thọ là 500 năm. Đến cõi trời thứ sáu Tha Hóa Tự Tại lấy 1600 năm của nhân gian làm một ngày, bình quân tuổi thọ là 16.000 năm. Đối với sự hưởng thọ ngũ dục, mỗi từng trời cao hơn lại thù thắng hơn, nhưng Thiên nhân rốt cuộc cũng phải chết, phước trời cũng có lúc cùng tận. Đến cõi trời chỉ là hưởng phước, khó có tâm cầu phước, cũng ít có cơ hội để cầu phước. Phước trời hết, sau khi chết vẫn bị đọa, có thể chẳng còn được thân người mà lại vào tam đồ. Trong Luật có ghi: Đệ tử tại gia của Tôn giả Mục Kiền Liên là ông Kỳ Bà, là một vị danh y đương thời, sau khi quy y Tam bảo trị bệnh miễn phí cho Tăng Ni, nhờ công đức sau khi chết sinh lên cõi Trời thứ 33. Một hôm, Tôn giả Mục Kiền Liên có một đệ tử bệnh không biết trị liệu thế nào, Ngài bèn dùng thần túc bay lên cõi trời 33 hỏi Kỳ Bà. Lúc ấy, gặp các vị Thiên nhân đang đi xe du ngoạn ở hoa viên, không có ai để ý đến Tôn giả Mục Kiền Liên đang đứng bên cạnh, Kỳ Bà trông thấy cũng chỉ giơ tay vẫy chào rồi vẫn cho xe chạy nhanh. Tôn giả Mục Kiền Liên dùng thần lực dừng xe ấy lại và trách Kỳ Bà: “Ông thấy ta sao chẳng xuống xe kính lễ?”. Kỳ Bà thưa: “Cần kíp hưởng lạc nên không tự chủ được”, và nói “Tôi giơ tay vẫy chào cũng là khá lắm, chứ các Thiên nhân kia, không ai ngó ngàng gì đến Ngài”. Câu chuyện này đủ cho ta thấy sau khi sinh lên Trời, mê đắm trong sự hưởng thụ dục lạc quên mất sự học Phật tu hành, cũng không có tâm kính lễ Tam bảo.

Nhân gian là khổ, nhưng ở trong ngũ đạo chỉ có loài người nhân vì thọ khổ mà hành thiện cầu phước. Vì thế đoạn trên có nói chỉ có loài người thọ giới đắc giới Phật giáo là Phật giáo của nhân gian, học Phật trì giới tuy có thể được quả báo sinh lên trời, nhưng người chân chính học Phật chẳng cầu sinh lên trời. Điều này trong Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da quyển 49 có ghi một sự tích: Có một thầy Tỳ kheo trì giới, ban đêm ngồi trên một cái giường thấp nhập định. Trong định bị một con rắn độc cắn trên trán, tuy trúng độc thân chết mà vẫn chưa biết, vì thầy chưa chứng đạo nên chưa ra khỏi tam giới. Lúc xuất định, thầy thấy có 500 thể nữ vây quanh trước sau, hỏi ra mới biết mình sinh lên cõi Trời thứ 33. Các thiên nữ mời thầy ra mắt vua Trời là Đế Thích, song thầy chưa nhiễm dục lạc trái lại thầy còn cho rằng thiên nữ phá thầy cho nên thầy cảm thấy khó chịu và nói : “Tôi chỉ lễ Phật đà chẳng lễ Thiên Đế và muốn Thiên Đế đến lễ kính tôi!”. Thiên nữ hỏi lý do, Thầy đáp: “Chỉ cần vào trong vườn đẹp này xuất gia, có thể được Thiên Đế Thích kính lễ”. Nhân đây, thầy mạnh dạn bỏ sự hưởng thụ phước Trời, trở lại cuộc sống xuất gia. Qua chuyện này đủ thấy người có tâm học Phật chẳng cần cầu hưởng phước Trời.

Tất cả nghiệp lực có thể do nguyện lực của mỗi người chuyển biến, nếu như nhận công đức thọ trì ngũ giới có thể được quả báo sinh lên cõi trời, nguyện đem công đức này sinh trở lại nhân gian đời đời kiếp kiếp thấy Phật nghe pháp, hoặc làm trưởng giả, cư sĩ hộ trì Phật pháp, hoặc làm Tăng bảo thanh tịnh hoằng pháp lợi sinh. Nếu như không chịu như thế hoặc do chí nguyện bất đồng cũng có thể nguyện đem công đức trì giới này hồi hướng vãng sinh Tây phương Tịnh độ, tăng trưởng phẩm vị của đài sen, đến lúc mạng chung Phật đến tiếp dẫn, hoa nở thấy Phật, được bất thoái chuyển.

Công đức của ngũ giới, tùy theo người mà có khác. Người tại gia có thể do Bố thí cầu phước, nhưng công đức của thọ ngũ giới còn vượt lên tất cả công đức Bố thí tài vật. Tôi xin cầu mong nam nữ tại gia phát tâm thọ ngũ giới, thọ ngũ giới rồi chẳng cần cầu sinh lên cõi trời, tốt nhất là nương nơi nguyện lực trở lại nhân gian; bằng không, cũng nên vãng sinh Tây phương Tịnh độ.

Ngay nơi hiện đời, người trì ngũ giới có thể giảm bớt những phiền não và tai nạn hiểm nghèo, ít nhất là không còn nhân vì sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu mà sinh tại họa.

Lại, theo Kinh nói: Trì mỗi một giới có 5 vị thiện thần thường theo bên mình bảo vệ. Nếu trì ngũ giới có 25 vị thiên thần theo bên mình bảo hộ, khiến cho cuộc sống đều được an ổn, gặp dữ hóa lành.

Phật pháp chẳng những làm cho người ta được an lạc vĩnh cửu mà còn làm cho người ta an lạc ở hiện đời. Thọ trì ngũ giới là viên ngói gõ cửa để cầu lấy hai thứ báu an lạc này.

Xã hội lý tưởng của Phật giáo nhân gian là dùng thập thiện làm tiêu chuẩn. Ngũ giới nếu được mọi người hành trì rộng rãi thì thế giới đại đồng của Nho gia đề xướng liền trở thành hiện thực.

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT – Thiên thứ hai: Quy Y Tam Bảo

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT

Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích nữ Tuệ Đăng Dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

—————————————————–

Thiên thứ hai: Quy Y Tam Bảo

Chương 1: Tam Bảo Và Quy Y


I. VÌ SAO CẦN QUY Y TAM BẢO

Chúng ta nhận thấy rằng trong hàng ngũ Phật giáo đồ có một số đông không có quy y. Vì người quy y Tam bảo rồi, dĩ nhiên thường đốt hương lễ Phật. Song, người đốt hương lễ Phật chưa hẳn là đã thọ Tam quy. Tuy chưa từng quy y Tam bảo, những người này vẫn tự xưng là tín đồ Phật giáo, chúng ta cũng chẳng cần phủ nhận tín ngưỡng của họ.

Có người chủ trương: “Tin Phật chỉ cần tâm thành, hà tất nhất định cần phải quy y”. Quan niệm mới nghe qua dường như có lý, thật ra thì chẳng hợp yêu cầu. Ví như học sinh muốn học, trước tiên phải làm thủ tục đăng ký nhập học, bằng không thì trong trường không có học tịch, nên chỉ được miễn cưỡng dự thính, đến cuối niên học không có văn bằng. Một học sinh thông thường nhất định là phải chiếu theo học niên, học trình để lên lớp, lên cấp, từ Tiểu học qua Trung học rồi đến Đại học. Đầu tiên vào Tiểu học, trước hết phải đăng ký, khi lên Trung học và Đại học, ngoài việc đăng ký ra còn phải thi cử xem có đủ năng lực theo học hay không. Còn như chẳng học Tiểu học, mà muốn lấy văn bằng Đại học, cho đến lấy bằng Bác sĩ thì không thể nào được. Do đó, muốn quy y Phật phải bắt đầu từ quy y Tam bảo. Quy y Tam bảo là bước thứ nhất tiến vào cửa Phật. Nếu chẳng đi bước thứ nhất này, đâu thể nào bước được bước thứ hai, thứ ba. Muốn đi bước thứ hai, thứ ba ắt phải bắt đầu bằng bước thứ nhất. Cấp bậc của đệ tử Phật lấy theo thứ lớp thọ giới để quy định. Quy y Tam bảo là lớp cơ bản đầu tiên, lên trên còn có ngũ giới, bát giới, thập giới, Tỳ kheo giới, Tỳ kheo ni giới, Bồ tát giới, tất cả các giới đều lấy quy y Tam bảo làm căn bản. Phật giáo chẳng bỏ chúng sinh, đặc biệt mở rộng đối với mọi người thỉnh cầu quy y Tam bảo. Chúng sinh trong lục đạo, trừ chúng sinh trong địa ngục bị khổ quá lớn, quá nhiều, không có cơ hội quy y Tam bảo, còn thì bất luận người, trời, thần, quỷ, súc sinh, chỉ cần phát tâm quy y là Phật giáo tiếp nhận. Điều này cũng giống như trẻ em đủ tuổi đi học, bất luận giàu, nghèo, sang, hèn, trí, ngu, đẹp, xấu không phân biệt, đều được nhập học trong trường Tiểu học. Như muốn tiến thêm một bước thì cần phải qua sự kiểm tra sát hạch về tư chất.

Có người cho rằng mình đã có năng lực xem kinh thì tự mình có thể trực tiếp hướng vào trong kinh Phật tìm ra con đường thành Phật, vì thế chẳng cần quy y cũng có thể được sự thọ dụng của việc học Phật. Điều này nói trên lý thì dường như thông, nhưng ở trên quy chế của sự tướng thì đó là sai lầm. Kinh Phật là do đức Phật thuyết (cũng có thể do đệ tử Phật thuyết), lại do đệ tử xuất gia của Phật kiết tập truyền cho hậu thế. Như nói chỉ biết kinh Phật, tức là chỉ quy y Pháp bảo mà bỏ qua Phật bảo là người thuyết pháp và Tăng bảo là người lưu truyền Pháp bảo, đây là một hành vi vong ân. Phật giáo tuy lấy Pháp bảo làm chủ, đạo giải thoát đều do Pháp bảo sinh ra, nhưng sự sinh ra của Pháp bảo phải do Phật bảo và Tăng bảo mới được hoàn thành, vì thế Tăng bảo chẳng tách rời nhau.

Nếu giảng đến chế độ hoặc nghi thức tin Phật mà chẳng quy y Tam bảo, thì cũng như một người ngoại quốc yêu mến phong thổ và vạn vật Trung Quốc. Người ấy đến cư trú ở Trung Quốc, nhưng không đăng ký đổi quốc tịch của mình, mà lại tự xưng là người dân Trung Quốc. Người ấy dù được người Trung Quốc hoan nghinh, nhưng rốt cuộc chẳng phải là người Trung Quốc. Người ấy có thể làm hết nghĩa vụ của người dân Trung Quốc, nhưng cuối cùng cũng chẳng hưởng được quyền lợi của công dân Trung Quốc. Cũng vậy, một người chẳng thọ Tam quy lại tự xưng là Phật giáo đồ, người ấy tuy có thể được chút ít chỗ hay của Phật pháp, nhưng cuối cùng chẳng được ấn chứng. Đây chẳng phải là điều quá chấp trước mà là thủ tục cần phải có. Cho nên trong kinh Phật nói: “Người đời tuy làm điều thiện, nhưng chẳng phá được ác nghiệp đời trước. Nếu hay thọ Tam quy giới thì phá hoại được ác nghiệp đời trước”.

Thọ Tam quy chẳng phải chỉ là vấn đề trên hình thức, mà còn là vấn đề trên tâm tính nữa. Lúc thọ Tam quy, chẳng những trong miệng niệm, thân thể lễ lạy, mà trong tâm còn phải quán tưởng nữa. Chủ yếu là sự lãnh thọ ở tại tâm lấy giới thể quy y. Giới thể phải do người trước đã thọ quy giới, sư sư truyền nhau, đây là pháp thống một mạch truyền thừa. Hạng phàm phu chẳng thể không thầy tự chứng, vì thế Tam quy chẳng được ở trước tượng Phật, Bồ tát tự thệ tự thọ. Do đây có thể biết tính cách trang nghiêm và trọng yếu của sự thọ Tam quy.

Như nói chẳng thọ Tam quy mà muốn thành một tín đồ Phật giáo chánh tín, đó là điều không thể được. Nếu như chỉ tin Phật pháp nhưng chẳng lễ Tam bảo, người ấy trước tiên đã trái với Phật pháp rồi. Trong Phật pháp, Tam bảo chẳng thể tách rời nhau. Nếu tách rời nhau là phá hoại Phật pháp. Một người trái với Phật pháp và lại phá hoại Phật pháp mà đạt đến thiện quả của sự học Phật, đó là điều không bao giờ có. Bằng không, đã tin tưởng Tam bảo, tại sao chẳng quy y Tam bảo?

Có một ít người còn chưa tin Phật, song đối với Phật giáo cũng có chút cảm tình, họ chẳng chịu quy y Tam bảo liền, vì sợ rằng sau khi quy y sẽ bị câu thúc, hoặc sau khi quy y không có cách nào gỡ ra. Vì thế họ có thái độ để chờ xem. Họ xem ý nghĩa quy y đồng như hôn nhân giữa nam nữ, lúc chưa hiểu nhau chẳng dám kết hôn. Sợ rằng: Nếu như tính tình hai bên chẳng hợp thì khó tránh khỏi tạo thành nỗi đau khổ suốt đời. Thật ra quy y Tam bảo và vấn đề hôn nhân giữa nam nữ là hai việc hoàn toàn khác nhau. Tỷ như chúng ta muốn học một môn kỹ nghệ nào cũng đều phải có thầy. Nếu không như vậy thì khó thành một chuyên gia bậc nhất. Chỗ hay của học thầy là nhận lấy sở học, sở trường của thầy. Thầy mình cũng là học nơi từ thầy của thầy, thậm chí kinh nghiệm tích luỹ từ trăm, ngàn năm nơi bản thân của thầy, chúng ta theo thầy học tập cũng là kế thừa kinh nghiệm quý báu của mấy trăm, ngàn năm ấy. Sau khi học xong một môn kỹ nghệ là chúng ta có thể dùng đến. Nếu như trong thời gian học tập cảm thấy không thích hợp với mình thì nên thôi học. Nếu đã học thành tài, chẳng ngại gì theo thầy cho đến suốt đời, song cũng có thể lìa thầy để làm ăn độc lập. Quy y Tam bảo cũng giống như vậy.

Muốn hiểu chút ít Phật pháp, phải bắt đầu từ quy y Tam bảo. Nếu như chỉ đợi xem xét tình hình rồi sẽ quyết định quy y, rốt cuộc vẫn là người đứng ngoài cửa mà mong hiểu chút ít về Phật pháp, đó chỉ là vọng tưởng. Cửa Phật chẳng phải là tù ngục, mà là con đường thênh thang giải thoát. Sau khi quy y mà bị câu thúc, thì cửa Phật cũng chẳng thể gọi là con đường giải thoát. Phật giáo cố nhiên hy vọng mọi người quy y Tam bảo, và từ khi bắt đầu quy y là đi một mạch thẳng đến thành Phật. Nhưng do căn khí sai biệt mà có một số người chẳng thể tiếp thọ thắng nghĩa của Phật pháp, chẳng thể tuân hành đúng như pháp, sau khi quy y lại đi tin tôn giáo khác hoặc chẳng tin tôn giáo nào. Đối với những người này, Phật giáo đặc biệt chú trọng hơn, là sau khi họ ra khỏi Phật giáo, cửa từ bi của Phật giáo luôn luôn mở rộng, tuỳ thời vui vẻ đón tiếp đứa con hoang quày đầu trở về.

Do đó, tôi kính khuyên tất cả người đời đều nên quy y Tam bảo. Dù ông đã tin Phật giáo, hoặc chuẩn bị tin, hoặc còn do dự đứng ngoài cửa Phật giáo, cho đến dù ông là một tín đồ của tôn giáo khác, cũng chẳng ngại gì mời ông tạm thời buông bỏ thành kiến hoặc tín ngưỡng vốn có của ông để thử đến quy y Tam bảo, chắc chắc ông sẽ được lợi ích thực tiễn và cũng chẳng mất tự do của ông. Nếu như thật sự quy y Tam bảo rồi, trừ phi ma chướng che tâm, ông chẳng bao giờ thoái lui ra cửa Tam bảo.

II.       QUY Y TAM BẢO LÀ GÌ?

Từ trên mặt chữ giải thích, thì Quy y quay về hoặc là quay đầu, y là nương tựa hoặc là tin cậy. Hành vi quay về nương tựa, hoặc hướng về tin cậy là quy y. Vì thế hai chữ quy y cũng chẳng phải là từ ngữ chỉ có Phật giáo chuyên dùng.

Bé con sà vào lòng mẹ của nó, nương tựa mẹ nó, tin cậy mẹ nó, vì thế nó có cảm giác an toàn. Sự sinh ra cảm giác an toàn này phát xuất từ sức mạnh của sự quy y. Do đó, phàm do nơi hành vi hướng về tin cậy sinh ra cảm giác an toàn đều có thể gọi là quy y.

Theo đây có thể nói, con cái tin cậy cha mẹ, học sinh tin cậy thầy giáo, xí nghiệp tin cậy dự toán, thuộc hạ tin cậy trưởng quan, người theo túc mạng luận tin cậy mạng vận, cho đến người bạo ngược tin cậy vào mưu lược, người tham lam tin cậy vào tài sản v.v…đều có phần nào hoặc ít, hoặc nhiều cái nghĩa quy y. Nói một cách khác, thông thường là do tín ngưỡng mà hiểu được sự lý đều có thể xem là thuộc về quy y. Thế nên tín ngưỡng Phật giáo cố nhiên có thể gọi là quy y, hoặc là tín ngưỡng tôn giáo khác cho đến tín ngưỡng sùng bái cúng tế yêu thần quỷ quái cũng đâu có thể gọi là quy y.

Nhưng giảng đến chân nghĩa của quy y, phàm sự tin cậy cùng tín ngưỡng chẳng cứu cánh, chẳng chân thật, chẳng thế nương cậy, đều chẳng được gọi là chân quy y. Ví như bị tai nạn nước lụt lớn, người ta có thể leo lên ngọn cây, trèo lên nóc nhà, chạy lên gò nhỏ, nhưng thế nước lớn, sóng gió to, nước dâng cao làm cho cây ngã nhà sập, gò nhỏ bị ngập. Vì thế, trong hoàn cảnh ấy, nếu như gần đấy có một trái núi cao, mọi người có thể chẳng leo lên núi cao hay không? Tôi tin rằng trừ kẻ quá ngu si ra, chứ không ai bỏ đi cơ hội được sống còn. Bởi vì núi cao đem đến cái hiệu quả an toàn, nó cao chẳng phải ngọn cây, nóc nhà, gò nhỏ có thể so sánh được.

Vậy người nào nhận thức được thế sự vô thường, tất cả tướng thế gian đều do nhân duyên đối đãi với nhau mà thành, người ấy có thể hiểu rõ ràng cha mẹ, thầy giáo, dự toán, trưởng quan, mạng vận cho đến vũ lực, tài sản v.v…tuy có thể sinh ra hiệu quả an toàn tạm thời, nhưng rốt cuộc chẳng thể tuyệt đối vĩnh cữu để nương tựa. Cha mẹ sẽ chết, tri thức của thầy giáo sẽ lạc hậu, dự toán sẽ tiêu ngạch, trưởng quan sẽ bị điều động đổi đi, mạng vận dựa không chắc, cho đến vũ lực, mưu lược cùng tài sản…lại là như huyễn, như khói. Ngày hôm nay làm vua, ngày mai có thể làm tù nhân, ngày hôm nay là phú ông trăm vạn, ngày mai có thể là kẻ ăn mày trong ngõ hẻm.

Đến như tín ngưỡng các tôn giáo khác có thể sinh lên trời, song do hẳn do nơi tín ngưỡng mà quyết định được sinh lên cõi trời. Tỷ như Cơ Đốc giáo, người tin có thể được cứu, song cũng chưa ắt được cứu. Thượng đế chẳng sủng ái, dù cho ông tin khẩn thiết như thế nào cũng chẳng dễ gì được tuyển làm dân của Thiên quốc. Nhìn trên tầng lớp của Phật giáo, trừ Phật giáo ra, tất cả các tôn giáo khác, dù là tôn giáo cao cấp nhất của họ cũng đều chẳng vượt ngoài phạm vi sinh lên cõi trời. Nhưng, cõi trời ở trong Phật giáo, giả sử có sinh lên cõi trời cao nhất đi nữa, vẫn còn ở trong sinh tử luân hồi. Thọ mạng của trời tuy dài hơn người thế gian, song cũng có giới hạn, phước trời hưởng hết, sau khi chết lại bị đoạ, cho nên rốt cuộc chẳng phải là chỗ quy y đáng để nương tựa. Chỉ có quy y Phật giáo mới có thể khiến cho người ta dần dần tiến lên đạo giải thoát cứu cánh lìa khổ được vui. Tổng thể của Phật giáo là Tam bảo: Phật, Pháp và Tăng.

Trên thực tế, khuynh hướng của quy y trước tiên phải bắt đầu từ quy y Tam bảo ở ngoài thân, với sự khai mở và chỉ dẫn của sự hướng về Tam bảo, nương cậy Tam bảo để đi vào con đường đại giải thoát đưa đến thành Niết bàn. Nhưng đường đi và thành Niết bàn (giải thoát) ngay nơi tự thân cũng là lý thể Tam bảo. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, do vì nghiệp chướng mê hoặc nên chẳng thấy được Phật tánh, mục đích của chúng ta quy y Tam bảo chính là muốn cho Phật ta hiển hiện. Chúng ta vốn đồng với Phật, vốn đồng với Tam bảo, chỉ do mê mờ quên mất bổn tánh mà trôi nổi trong đường sinh tử, chẳng biết đường trở về nhà, vì thế gọi là chúng sanh. Nếu từ hôm nay chúng ta bắt đầu quay về Tam bảo thì cũng chỉ là đứa con lưu lạc quay đầu bước trở về nhà cũ của mình mà thôi.

Do đó, chỉ có con đường trở về nhà mới được xem là quy y chơn chánh. Còn như chỉ có thể cho người cái chỗ tạm thời để nghỉ chân thì tuyệt đối chẳng phải là chỗ cho chúng ta quy y suốt đời. Bằng không, cũng giống như cưỡi trâu đất qua sông, vừa mới xuống nước hoặc có chút cảm giác sai lầm đã cho là an toàn; song một phen xuống nước, chính tự thân của trâu đất cũng khó bảo toàn, lại có thể làm công cụ qua sông cho người được ư!

Tam bảo là gì? Tại sao gọi Phật, Pháp, Tăng là Bảo? Đây là điều rất quan trọng. Một người muốn tin Phật trước tiên cần phải quy y Tam bảo. Nhưng trước khi quy y cần phải hiểu rõ đại ý của Tam bảo. Bằng không, chẳng hiểu chỗ hay đẹp của Tam bảo thì không được gọi là chân chính quy y. Cũng giống như chúng ta muốn thi vào trường Đại học để cầu học, nếu như chẳng biết tên của trường Đại học ấy, quả thật đáng tức cười. Nhưng chúng ta có thể nói, ngày nay đệ tử của Tam bảo lúc tiếp thọ quy y chưa hẳn đã hiểu qua đại ý của Tam bảo, các thầy truyền thọ quy y chưa ắt đã khai thị qua về đại ý của Tam bảo. Nói ra đây là điều đáng xấu hổ.

Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng; bởi vì từ Phật, Pháp, Tăng sinh ra công đức vô lượng, phát huy diệu dụng vô tận, và lấy đó chẳng cạn, dùng nó chẳng hết, vô cực, vô hạn, vô bến, vô bờ. Thế gian cho vàng bạc châu báu giá trị cao, công dụng lớn, vì thế gọi là bảo (quý báu). Công đức và diệu dụng của Phật, Pháp, Tăng thì thông cả thế gian lẫn xuất thế gian, vì thế đáng gọi là Bảo. Do sự giáo hoá của Tam bảo khiến cho người ta sống bình an nơi nhân gian và làm cho con người ở nhân gian lìa khổ được vui. Vì thế, Tam bảo là quý báu, lại còn vượt hơn sự quý báu của các thứ báu tột bực.

Về chủng loại của Tam bảo, xưa nay có nhiều cách phân biệt. Từ trên đại thể mà nói, chẳng ngoài do sự bất đồng của sự tướng và lý thể. Nay phân làm hai loại lớn:

1.  Từ trên sự tướng có Trụ trì Tam bảo và Hoá tướng Tam bảo.

2.  Từ trên lý thể có Nhất thể Tam bảo và Lý thể Tam bảo.

Trước khi giải thích chủng loại của Tam bảo, đầu tiên cần phải biết hàm ý của Tam bảo. Phật là người giác ngộ: Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Pháp là phép tắc có khuôn khổ khiến người ta hiểu và có khả năng gìn giữ tự tánh chẳng mất. Tăng là hoà hợp chúng, hoà hợp nơi sự lý ở chung với nhau.

1.       Trụ Trì Tam Bảo

–          Dùng ngọc chạm, đá khắc, vàng đúc, đồng nấu, đất đắp, gỗ chạm, dầu sơn, mực họa, thêu trên vải, vẽ trên giấy hình tượng Phật, ấy là Phật bảo.

–          Tam tạng kinh điển hoặc trứ thuật về Phật giáo của chư vị Đại đức xưa nay, ấy là Pháp bảo.

–          Tỳ kheo, Tỳ kheo ni cạo tóc mặc áo nhuộm, ấy là Tăng bảo.

Do vì Phật giáo sau khi đức Phật nhập diệt nương tựa vào một loại Tam bảo này để nối tiếp huệ mạng Phật, bảo trì tinh thần Phật giáo và truyền bá giáo nghĩa Phật giáo, vì thế gọi là Trụ trì Tam bảo.

2.       Hoá Tướng Tam Bảo

–          Trong giai đoạn Phật Thích Ca Mâu Ni tại Ấn Độ thành đạo cho đến nhập diệt, Đức Phật Thích Ca là Phật bảo.

–          Các thứ giáo pháp đương thời Đức Phật dạy đệ tử như các đạo lý: Tứ thánh đế, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên…, ấy là Pháp bảo.

–          Đệ tử phàm thánh đương thời theo Phật xuất gia, ấy là Tăng bảo.

Đây là tướng trạng chỉ có lúc đức Phật trụ thế ứng hoá, vì thế gọi là Hoá tướng Tam bảo.

3.       Nhất Thể Tam Bảo

Tức là trong Tam bảo Phật, Pháp, Tăng mỗi mỗi đều riêng có công đức của Tam bảo.

–          Phật có khả năng giác chiếu, vì thế gọi là Phật bảo. Phật hay thuyết pháp, tự tại đối với pháp, cho nên có cái khả năng quỷ trì, vì thế gọi là Pháp bảo. Phật không có cái lỗi tranh cãi, vì thế gọi là Tăng bảo.

–          Bản thể của Pháp có đủ cái tánh năng sinh chư Phật, vì thế là Phật bảo. Bản thân của Pháp có công năng quỷ trì, vì thế gọi là Pháp bảo. Phật pháp bình đẳng chẳng chướng ngại nhau, vì thế gọi là Tăng bảo.

–          Tăng có cái trí quán chiếu, là Phật bảo. Tăng có cái dụng quỷ trì, là Pháp bảo. Tăng có cái thể hoà hợp, là Tăng bảo.

4.       Lý Thể Tam Bảo

Là nói Tam bảo sẵn có của tất cả chúng sinh, mọi người đều đủ. Ở đây có hai loại:

–          Từ trên sự tu chứng: Phàm phu đều vì Hoặc, Nghiệp, Khổ mà lưu chuyển sinh tử, cho nên có thể chuyển mê thành ngộ: Hoặc, tức thành Bát nhã; Nghiệp, tức thành giải thoát; Khổ, tức thành Pháp thân. Bát nhã là Phật bảo, Giải thoát là Pháp bảo, Pháp thân là Tăng bảo.

–          Từ trên lý thể (chân như): Lý năng quán là Phật bảo, sự sở quán là Pháp bảo, sự lý nhất như là Tăng bảo.

Kỳ thật, Tam bảo tuy phân làm bốn loại, nhưng chỉ có hai thứ tính chất là sự và lý. Sự tướng Tam bảo là hiện thực, vì thế dễ hiểu. Lý thể Tam bảo là trừu tượng, vì thế chẳng dễ gì hiểu được, trừ phi đã khai ngộ, đã chứng được tự tánh chân như, bằng không đều là cảm thấy xa lạ, nhưng đó lại là chỗ cứu cánh quy y của chúng ta. Để cho độc giả dễ hiểu hơn, chúng tôi xin ghi lại một đoạn giới thiệu về vấn đề này của Pháp sư Ấn Thuận để tham khảo:

Luận đến chỗ chân thật quy y là công đức chân thật của Tam bảo, điều này xưa nay có nhiều sự phân biệt, nay chỉ nói sơ lược hai loại:

1.       Công đức vô lậu của Phật là Phật bảo, nói theo Thanh Văn thừa, đó là Ngũ phần pháp thân (Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến); nói theo Đại thừa, đó là tất cả công đức vô lậu nhiếp vào Vô thượng (Tứ trí) Bồ đề. Chánh pháp, hoặc Niết bàn là Pháp bảo. Công đức vô lậu của hữu học, Vô học là Tăng bảo. Theo Thanh Văn thừa nói Tăng bảo tức là công đức vô lậu của Tứ song bát bối (Tứ hướng, Tứ quả của Tiểu thừa).

2.       Đại thừa giáo nói pháp giới thanh tịnh nhất như được hiển hiện bởi cứu cánh viên mãn (nhiếp được thể tướng nghiệp dụng) là Phật bảo. Pháp giới (hoặc gọi là chân như; thật tướng.v.v…) trùm khắp mười pháp giới chẳng thêm, chẳng bớt, không hai, không khác, là Pháp bảo. Chút phần hiển hiện pháp giới thanh tịnh là Tăng bảo. Bình thường nói nhất thể Tam bảo, Lý thể Tam bảo đều chẳng qua là sự giải thuyết bất đồng về một ý nghĩa này (Thành Phật Chi Đạo, trang 21).

Xem qua đoạn văn trên, nếu như chúng ta không có một chút nền tảng Phật học thì vẫn không hiểu. Nhưng chúng ta còn là phàm phu, nếu lý giải được Lý thể Tam bảo đương nhiên là tốt. Nếu chẳng lý giải được chỉ cần tin Sự tướng Tam bảo, sau khi tin đến một giai đoạn nào đó, Lý thể Tam bảo cũng tự hiển hiện. Cũng giống như khi chúng ta chưa du hành qua không gian, đối với cảnh tượng của không gian dù cho người đã du hành không gian nói rõ như thế nào đi nữa, chúng ta cũng chỉ biết lờ mờ, cho đến mất sự thật; chỉ có người đích thân du hành không gian một phen mới biết rõ được. Vì thế, phàm phu chúng ta nếu chỉ tín ngưỡng Trụ trì Tam bảo cũng là được rồi. Nhưng chúng ta phải nên hiểu rõ: Không có trụ trì Tam bảo thì cũng không làm sao hiển hiện được Lý thể Tam bảo; không có Lý thể Tam bảo thì Trụ trì Tam bảo không làm sao an lập. Trụ trì Tam bảo là đại dụng của Lý thể Tam bảo, Lý thể Tam bảo là toàn thể của Trụ trì Tam bảo. Tín ngưỡng Phật giáo bắt đầu từ tín ngưỡng Trụ trì Tam bảo, mục đích của tín ngưỡng của Trụ trì Tam bảo là làm hiển hiện (phát minh) Lý thể Tam bảo.

Ngày nay, có đệ tử tại gia của Phật tự mình chưa chứng Lý thể Tam bảo, chỉ tin Lý thể Tam bảo rồi lấy đó làm lý do để chẳng kính Trụ trì Tam bảo, ấy là đảo ngược gốc ngọn, là hành vi muốn lên cao trái lại bị rơi xuống thấp.

Điều phàm phu chúng ta có thể thấy đến chỉ có Sự tướng Tam bảo, còn Hoá tướng Tam bảo là tướng trạng chỉ lúc đức Phật còn trụ thế mới có. Sau khi Phật nhập diệt chỉ có Trụ trì Tam bảo. Trong Tam bảo, tuy Phật bảo là tôn quý nhất, Pháp bảo cao hơn hết, nhưng địa vị Tăng bảo là trọng yếu nhất. Sau khi đức Phật nhập diệt, đạo tràng của Phật giáo phải do Tăng bảo trụ trì, kinh điển của Phật giáo phải do Tăng bảo bảo tồn, văn hoá của Phật giáo phải do Tăng bảo truyền bá, tín đồ của Phật giáo phải do Tăng bảo tiếp dẫn. Do đó, lúc đức Phật còn tại thế, Phật giáo lấy Phật làm trọng tâm. Còn ngày nay nói tín ngưỡng của Phật giáo, phải lấy Tăng bảo làm chỗ quy y; cung kính Tam bảo phải cung kính Tăng bảo.

Trong hàng ngũ Tăng sĩ hẳn có rồng rắn lẫn lộn, chúng ta quy y chẳng ngại gì chọn người lành noi theo, song với tâm cung kính cúng dường phải nên bình đẳng như nhau. Trong kinh Phật nói: Tuy là Tỳ kheo phá giới vẫn đủ tư cách làm thầy trời người, vì thế chẳng được phân biệt cao thấp và chẳng được phê bình tốt xấu.

Đoạn trước đã nói qua quy y Tam bảo là nền tảng của sự tin Phật, học Phật. Nhưng sau khi bước lên nền tảng để vào cửa Phật, cũng chẳng được bỏ nền tảng này, bởi vì từ đây mới dần dần tiến lên, từng từng mở rộng. Tam quy là viên đá đầu tiên kiến trúc đạo nghiệp này. Chủng loại của quy y Tam bảo có 5 bậc:

1.       Phiên tà tam quy: Đầu tiên tiến vào cửa Phật.

2.       Ngũ giới tam quy: Sau khi tin Phật, thọ thêm ngũ giới.

3.       Bát giới tam quy: Ngày lục trai thọ trì Bát quan trai giới.

4.       Thập giới tam quy: Sa di, Sa di ni thọ mười giới.

5.       Cụ túc giới tam quy: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni vâng thọ Đại giới.

Bởi vì khi thọ giới, chắc hẳn là có Tam quy; đầu tiên vào cửa Phật, cố nhiên phải có Tam quy; thọ thêm Ngũ giới, Bát giới, Thập giới đều nhờ Tam quy làm đắc giới và nhận được giới thể; Thức Xoa ma ni giới, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni giới, tuy dùng pháp yết ma thọ giới, song trong khi thọ giới đều có cử hành tam quy. Do đó, tuy nói tam quy chẳng phải giới mà nó lại là căn bản của tất cả giới (Kỳ thật, trong tam quy có hàm nghĩa giới).

Tam quy chẳng những là căn bản của tất cả giới mà còn là căn bản của sự tu trì hằng ngày của tín đồ Phật giáo, hai thời khoá tụng sớm chiều trong tự viện đều có tam quy, chung kết tất cả Phật sự cũng đều lấy tam quy làm tông bổn. Cho nên Phật giáo Tiểu thừa lấy tam quy làm trọng, họ xướng tam quy để hành trì và cũng xướng tam quy để khấn nguyện cho người.

Chương 2: Phương Pháp Và Lợi Ích Của Quy Y Tam Bảo


I. QUY Y TAM BẢO NHƯ THẾ NÀO?

Sau khi chúng ta đã có khái niệm về quy y Tam bảo rồi thì phải nên quy y Tam bảo.

Về nghi viết quy y Tam bảo, lúc đức Phật còn tại thế, nhân vì căn khí của người thọ quy y sâu dày, thế nên cũng không có dùng nghi tiết gì. Như đệ tử Tam bảo đầu tiên của đức Phật Thích Ca là cha của Da Du Già ở trước Phật nói: “Con nay quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, cúi xin Thế Tôn nhận cho con làm Ưu bà tắc”. Nói như thế, được xem là thọ tam quy rồi.

Nói theo thực tế, trước khi đức Phật chưa độ 5 Tỳ kheo, trên đời không có Tỳ kheo Tăng bảo, Phật truyền tam quy cho hai người lái buôn, Long vương, và xướng tam quy, là muốn họ quy y vị lai Tăng.

Điều đó đủ biết Tam bảo là một thể; quy y Phật, quy y Pháp mà chẳng quy y Tăng thì cũng chẳng thành quy y.

Câu nói quy y tam bảo thật rất đơn giản, nhưng trước khi quy y, tốt hơn hết là học cho thuộc. Từ trước đến nay người thọ quy y đều ở ngay lúc quy y do vị thầy truyền quy y nói một câu thì nói theo một câu. Có người do vị thầy truyền quy y nói chẳng rõ, hoặc do trong lòng mình rối rắm, nên sau khi quy y rồi lại chẳng biết nội dung của những lời quy y là gì. Quy y như thế chẳng thành quy y.

Lời nói quy y có tam quy, tam kết như sau: Con là…(tên tục) suốt đời quy y Phật, suốt đời quy y Pháp, suốt đời quy y Tăng (nói 3 lần). Quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi (cũng nói 3 lần). Trước nói quy y 3 lần chánh thọ tam quy y giới, sau là tam kết của quy y. Chỗ trọng yếu của quy y là lúc nói ba lần chánh thọ tam quy, nhận lấy giới thể vô tác của tam quy cũng ở chỗ này chánh thọ. Tốt hơn hết là ngay lúc chánh thọ tam quy phải quán tưởng: Lúc nói văn quy y lần thứ nhất, do công đức phát tâm của mình cảm nhận mười phương đại địa chấn động và có mây công đức từ mười phương đại địa bay lên. Lúc nói văn quy y lần thứ hai, mười phương nổi mây công đức từ từ kết tập trên đỉnh đầu thành hình lọng hoa. Lúc nói văn quy y lần thứ ba, lọng mây bằng mây này liền thành hình cái phễu từ từ rơi xuống đảnh của mình, thấm khắp toàn thân và từ trong thân tỏa ra khiến cho thân tâm của mình tùy theo sự toả rộng của mây công đức mà đầy khắp mười phương thế giới. Đến đây tự mình đã nhận xong giới thể của tam quy, thân tâm của mình cũng theo công đức của giới thể cùng vũ trụ đồng một thể lượng. Thử nghĩ, quy y như vậy thì thiêng liêng và trang trọng biết bao!

Nếu như không quán tưởng được như thế, thấp nhất cũng phải nghe lời nói quy y rõ rang, nói ra cho rõ ràng, đây là tuyệt đối chẳng thể lôi thôi. Vì thế Đại sư Hoàng Nhất đã có nói qua một đoạn rất khẩn thiết như sau:

Dù là người xuất gia hay tại gia, lúc thọ Tam quy, trọng yếu nhất có hai điểm: Thứ nhất là chú ý đến ý nghĩa của quy y Tam bảo. Thứ hai là ngay lúc thọ tam quy, vị thầy phải nói thật là rõ ràng. Nếu lời thầy giảng toàn là văn ngôn không thể hiểu được, như vậy quyết chẳng đắc tam quy; hoặc cách quá xa nghe không rõ, cũng chẳng đắc tam quy. Hoặc tuy nghe hiểu hết, nhưng trong ấy có một hai chỗ nghi, cũng không đắc tam quy. Lúc chánh thọ, tức là ba lần nói: Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Đây là điều quan trọng nhất cần phải hết sức chú ý. Tiếp theo quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi, là tam kết không quan trọng. Vì thế các vị phát tâm thọ giới trước tiên phải biết rõ ý nghĩa tam quy, và đương lúc thọ phải chú ý ba câu: “Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, mới đắc tam quy. (Luật học yếu lược)

Do đó tam quy tuy đơn giản, song muốn thực sự đắc giới thể của tam quy y cũng chẳng phải dễ. Chúng ta thấy hiện tại đệ tử tam quy có nhiều người không đắc tam quy. Nếu như đệ tử không biết tam quy, thì chẳng ngại gì thỉnh Bổn sư hoặc thỉnh thầy khác thọ quy y một lần nữa. Trong nghi thức quy y đại quy mô của tập thể mấy chục người hoặc mấy trăm, mấy ngàn người là chẳng thể tin cậy được, chỉ là gieo trồng căn lành mà thôi.

Từ trên sự bồi dưỡng của tình tự tôn giáo mà nói, nghi thức thọ giới càng long trọng thì càng kích phát long chí thành, sự yêu cầu của thọ giới càng nghiêm khắc thì càng khiến cho người ta cảm thấy thiêng liêng, trang trọng. Cầu thọ tam quy vốn chỉ cần thỉnh cầu một vị thầy quy y ở trước Phật ba lần và nói tam quy, tam kết là được. Để thấy sự trịnh trọng của việc này, cuối đời nhà Minh, Luật sư Kiến Nguyệt ở núi Bảo Hoa, Nam Kinh, có biên tập bộ Tam Quy Ngũ Giới Chánh Phạm. Bộ này chiếu theo nghi thức truyền thọ Bồ tát giới cho đến Cụ túc giới mà biên tập thành, bộ sách này vẫn còn lưu thông, được đa số các thầy quy y dùng làm y cứ.

Trong Tam Quy Chánh Phạm có 8 tiết mục:

1. Trải toà thỉnh sư: Do người thọ quy y bày pháp tòa, dâng cúng hương hoa, đèn đuốc chỉnh tề, rồi đi lễ thỉnh vị thầy quy y lên tòa.

2.       Khai đạo: Khai thị ý nghĩa của tam quy y.

3.       Thỉnh Thánh: Nghinh thỉnh mười phương Tam bảo chứng minh thọ quy y và Hộ pháp Long thiên giám đàn hộ giới.

4.         Sám hối: Sám hối nghiệp chướng để cầu ba nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh, nhận được giới thể tam quy không tạp không uế.

5.         Thọ quy: Tam quy, tam kết và phát tam thệ.

6.         Phát nguyện: Phát tâm vô thượng Bồ đề, nguyện độ tất cả chúng sanh.

7.         Hiển ích khuyến chúc: Nói tam đức của tam quy thù thắng và dặn y theo lời dạy vâng làm.

8.         Hồi hướng: Đem công đức thọ tam quy này hồi hướng cho tất cả chúng sanh chìm đắm mau thoát sinh tử, sớm về cõi Phật.

Thọ tam quy như thế mới kể là trang trọng và viên mãn cứu cánh. Nhưng bộ Tam Quy Chánh Phạm này hiện tại cũng chẳng thực dụng cho lắm, vì văn tự dùng trong sách này đều là văn ngôn. Tuy lối hành văn điển lệ, cao nhã, nhưng nếu như vị thầy quy y không khéo ứng dụng, lúc thăng tòa thuyết quy y, người thọ tam quy không làm sao hiểu được, đã không hiểu được thì cũng không đắc tam quy. Vì thế Đại sư Hoằng Nhất phê bình bộ sách này như sau: “Bộ Tam Quy Ngũ Giới Chánh Phạm do Luật sư Kiến Nguyệt ở núi Bảo Hoa biên tập, khai thị phần nhiều dùng văn biền ngẫu, người nghe không làm sao hiểu được, nên cũng đồng như văn rỗng vô ích mà thôi. Tốt nhất là nên thỉnh vị thầy dịch thành tiếng phổ thông” (Luật học yếu lược).

Nếu đứng về mặt thực dụng mà nói, tám tiết mục ghi trong bộ Tam Quy Ngũ Giới Chánh Phạm thật ra có thể nói là thiếu một điều chẳng được. Tỳ kheo chẳng được đứng thuyết pháp cho cư sĩ nghe, cho nên cần phải trải toà. Dạy cho biết ý nghĩa của Tam Bảo, vì thế cần phải khai đạo. Vị thầy quy y là đại biểu Tam bảo truyền quy y cho người cho nên phải thỉnh thánh. Vì muốn đổi mới con người cho nên phải sám trừ tội lỗi quá khứ. Tam quy, tam kết và tam thệ là trọng tâm của sự thọ tam quy cho nên cần phải thực hành. Tam quy phân làm ba phẩm: Phát tâm độ mình độ người là Thượng phẩm, chỉ độ mình tự thoát sinh tử là Trung phẩm, chỉ cầu chẳng đọa tam đồ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) mà vẫn sinh ở cõi trời người là Hạ phẩm. Vì thế, khuyên phát tâm là điều tất yếu và để làm tăng thêm tâm tinh tấn và chí kiên cố, nên mục Hiển ích khuyến chúc (nói lên sự lợi ích và dặn dò khuyên nhủ) cũng là điều phải có. Để nuôi dưỡng lòng từ bi chẳng riêng tư nên đem công đức hồi hướng cho tất cả chúng sanh cũng là đúng.

Ở đây tôi muốn chỉ ra một điểm: Phật giáo Nguyên thuỷ không có phân biệt Đại thừa, Tiểu thừa; song giới luật thì thiên về hình thái Tiểu thừa, vì thế tam quy ở trong luật rất đơn giản, trừ lời nói tam quy ra, không có gì khác. Phật giáo Trung Quốc tất cả đều quy về Đại thừa, tất cả giới đều chiếu theo Đại thừa thọ trì cho nên thêm rất nhiều tiết mục. Nhưng những điều thêm vào này đều tốt,  chứ không phải xấu. Ngày nay, nếu như chẳng lấy quy y làm bước đầu của hạnh môn Đại thừa, thì cũng có thể chẳng dùng đến các tiết mục phát nguyện và hồi hướng.

Nếu như bị hạn chế của thời gian và hoàn cảnh, cũng chẳng ngại gì đơn giản hóa nghi thức tam quy. Nay tôi xin đề nghị một nghi thức giản đơn như sau:

Sau khi vị thầy lễ Phật xong ngồi yên, người thọ quy y quỳ gối chấp tay. Vị thầy quy y sau khi khai thị sơ lược về ý nghĩa của quy y Tam bảo, dạy người thọ quy y đọc kệ sám hối:

Trước kia con tạo bao nghiệp ác

Đều do vô thỉ tham sân si

Từ thân miệng ý mà sinh ra

Nay đối trước Phật xin sám hối.

Đọc ba lần, mỗi lần lạy một lạy, tiếp theo là chánh thọ tam quy và tam kết.

– Con tên là…suốt đời quy y Phật, suốt đời quy y Pháp, suốt đời quy y Tăng.

Nói ba lần, mỗi lần lạy một lạy rồi đọc:

– Con tên là…quy y Phật rồi, thà bỏ thân mạng chứ chẳng bao giờ quy y thiên ma ngoại đạo.

– Con tên là… quy y Pháp rồi, thà bỏ thân mạng chứ chẳng bao giờ quy y tà thuyết ngoại đạo.

– Con tên là… quy y Tăng rồi, thà bỏ thân mạng chứ chẳng bao giờ quy y đồ chúng ngoại đạo.

Đọc ba lần, mỗi lần lạy một lạy, rồi dạy phát tứ hoằng thệ nguyện:

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Đọc ba lần, mỗi lần lạy một lạy. Vị thầy quy y dạy sơ lược công đức của sự quy y và sách tấn y theo lời dạy vâng  làm rồi dạy đọc kệ  hồi hướng:

Quy y công đức thù thắng hạnh

Vô biên thắng phước đều hồi hướng

Nguyện khắp các chúng sanh chìm đắm

Chóng được sinh về Phật tịnh độ

Thập phương tam thế tất cả Phật

Chư tôn Bồ tát Ma ha tát

Ma ha Bát nhã Ba la mật.

Đến đây công đức quy y viên mãn. Sau khi vị thầy quỳ xuống tòa lễ Phật, người thọ giới lạy tạ vị thầy quy y ba lạy, thật ra là lễ Phật, lễ Tăng, song có một lễ cũng được.

Nghi thức quy y giản đơn đề nghị ở trên chẳng cần phải xướng lên, chỉ cần đọc mỗi chữ rõ ràng để người quy y lãnh thọ là được.

Trong đây, cũng có điều phải nói là tam thệ sau tam quy, tam kết: “Chẳng quy y thiên ma ngoại đạo, chẳng quy y tà thuyết ngoại đạo, chẳng quy y đồ chúng ngoại đạo”. Do sự kết lập của tam thệ này, tam quy cũng có tính chất và tác dụng của giới. Đây chẳng phải tính chất bài xích tôn giáo khác của Phật giáo, mà nhân vì ngoại đạo (tất cả tôn giáo, học thuyết ngoài Phật giáo) tuy cũng có đạo lý riêng của họ, song đều không phải cứu cánh. Phật là đấng đại giác, phước huệ đầy đủ, vì thế quy y Phật chẳng cần phải quy y thiên ma ngoại đạo nữa. Pháp là kho báu của trí tuệ, quy y vâng làm chắc chắn có thể lìa khổ được an lạc, vì thế chẳng cần quy y tà thuyết của ngoại đạo nữa. Tăng là thầy của trời người, có khả năng truyền thọ đạo thanh tịnh, vì thế chẳng cần quy y đồ chúng của ngoại đạo nữa. Mục đích của ba lời thệ này là phòng ngừa cho người đã tiến vào con đường chính, chẳng còn đi lầm vào lối tẻ nữa. Sau khi thọ tam quy rồi, như nếu vì muốn được bảo hộ nhà cửa, tài sản, đất nước, nhân dân và thân mạng an toàn mà cúng tế và lễ bái nếu không có tâm quy y quỷ thần, thiên thần, vẫn không mất quy y Tam bảo. Nếu có tâm quy y thiên thần, quỷ thần, thì mất quy y Tam bảo.

Nói đến vấn đề giới, sau khi quy y Tam bảo đích xác có một ít điều giới cấm. Thượng phẩm quy y các giới quy y Tam bảo tự nhiên đầy đủ. Hạ phẩm quy y cũng chỉ được ăn năm thứ tịnh nhục (chẳng nghi vì mình mà giết, chẳng thấy giết, chẳng nghe giết, tự tử, chim thú ăn còn dư) và chẳng được làm các nghề ác như: nghề đồ tể, nghề làm rượu, bán rượu, nghề mãi dâm, nghề cờ bạc. Mỗi năm vào tháng giêng, tháng năm, tháng chín, mỗi tháng sáu ngày chay (mùng 8, 14, 15, 23 và 2 ngày cuối tháng) nên ăn chay, nếu được như thế, người này trong hội đầu tiên của đức Phật đương lai Di Lặc sẽ có thể giải thoát.

Quy y Tam bảo còn có một điểm trọng yếu cần phải hiểu rõ là sau khi chúng ta quy y Tam bảo, tức là quy y thập phương tam thế tất cả Tam bảo. Vì thế, trong bài kệ hồi hướng có mấy câu: “Thập phương tam thế tất cả Phật. Chư tôn Bồ tát Ma ha tát, Ma ha Bát nhã Ba la mật”. Câu thứ nhất là tất cả Phật bảo, câu thứ hai là tất cả Tăng bảo, câu thứ ba là đại biểu Pháp bảo vô thượng. Trong ba câu này bao quát lý thể Tam bảo và sự tướng Tam bảo. Chúng ta hiện tại lấy sự tướng làm chủ yếu, vì thế cần phải nên cung kính cúng dường thánh tượng của tất cả chư Phật, Bồ tát, tất cả kinh điển của Phật giáo, tất cả người xuất gia của Phật giáo. Nhưng, Phật bổn sư của chúng ta là Thích Ca Mâu Ni, Tăng bổn sư của chúng ta là vị thầy quy y; vì báo ân nên chúng ta thiên trọng về Phật bổn sư và Tăng bổn sư cũng là chuyện thường tình của con người. Như nếu chỉ lấy Phật bổn sư làm Phật, còn các đức Phật khác chẳng phải là Phật, ấy là trái với Phật giáo. Cũng vậy, nếu chỉ kính vị thầy quy y mà chẳng kính tất cả các vị Tăng khác thì cũng chẳng đúng. Cũng giống như phủ định ngàn vạn điều thiện mà chỉ khẳng định một điều thiện, chỉ trồng một khoảnh ruộng mà bỏ hoang ngàn vạn khoảnh ruộng, ai chẳng nói là việc làm ngu si!

II.      LỢI ÍCH CỦA QUY Y TAM BẢO

Sự lợi ích của quy y Tam bảo thật ra rất nhiều, có thể cầu được cái vui hiện đời, có thể cầu được cái vui đời sau, lại cũng có thể do đây mà đạt đến cái vui cứu cánh của Niết bàn tịch tịnh. Tóm lại, có tám điểm lợi ích:

1.       Thành đệ tử Phật.

2.       Là nền tảng của sự thọ giới.

3.       Giảm khinh tội chướng.

4.       Chứa nhóm phước đức rộng lớn.

5.       Chẳng đọa ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).

6.       Người và loài chẳng phải người (phi nhân) đều chẳng thể nhiễu loạn.

7.       Tất cả việc tốt đều sẽ thành công.

8.       Được thành Phật đạo.

Như muốn phân biệt nêu ra, trong kinh Phật nói rất nhiều, xin chỉ chọn ra năm điều như sau:

1.       Nếu người quy y Tam bảo tương lai sẽ được phước báo chẳng thể cùng tận, ví như có một kho tàng châu báu nhân dân toàn cõi nước gánh chở bảy năm cũng chẳng hết, công đức quy y so với kho tàng này còn lớn hơn gấp ngàn vạn lần (Kinh Ưu bà tắc giới).

2.       Có một vị Thiên tử ở cõi trời Đao lợi, phước trời hưởng hết, thọ mạng sắp chấm dứt, chỉ còn bảy ngày nữa sẽ chết, thân thể của vị Thiên tử ấy đang suy hoại. Nhưng vị ấy biết sau khi chết sẽ đầu thai vào bụng heo, vì thế vị ấy vô cùng sợ hãi liền đến thỉnh giáo Thiên chủ, Thiên chủ cũng không có cách cứu vớt, mới bảo vị ấy đến cầu cứu đức Phật. Đức Phật dạy vị ấy quy y Tam bảo sau khi chết chẳng những khỏi đọa vào thai heo, lại được sanh làm người gặp ngài Xá Lợi Phất thỉnh Phật thuyết pháp mà chứng được thánh quả (Kinh Chiết Phục La Hán)

3.       Quá khứ có vị Thiên tử ở cõi trời thứ ba mươi ba, hưởng hết phước trời, còn bảy ngày nữa phải chết, những sự hoan lạc ngày trước đều ly khai vị ấy, thiên nữ xinh đẹp không còn lân cận vị ấy, tướng mạo đường đường oai vệ nay biến thành không có khí sắc, thân thể suy nhược hôi hám khó chịu, hai nách suốt ngày đổ mồ hôi dơ. Vị ấy biết mình sẽ đầu thai vào bụng heo, do đó vị ấy khóc than thảm thiết. Việc này làm cho Thiên chủ hay biết, Thiên chủ bèn dạy vị ấy thành tâm quy y Tam bảo, dạy vị ấy đọc thầm: “Quy y Phật lưỡng túc tôn, quy y Pháp ly dục tôn, quy y Tăng chúng trung tôn”. Vị ấy theo lời khuyên dạy của Thiên chủ quy y Tam bảo. Qua thời hạn 7 ngày, vị ấy chết. Thiên chủ muốn biết sau khi chết vị ấy sinh về đâu, song Ngài không có năng lực xem thấy chỗ sinh của vị Thiên tử này, Ngài đến hỏi đức Phật. Phật nói: “Vì nhờ công đức quy y Tam bảo, chuyển đọa thành thăng lên đến cõi trời Đâu Suất Đà, thiên nhãn các ông có thể thấy xuống bậc dưới chứ chẳng thể thấy lên tầng trên”. (Kinh Sai Miệt Năng Pháp Thiên Tử Thọ Tam Quy Y Hoạch Miễn Ác Đạo).

4.       Nếu như trong bốn đại bộ châu Đông, Tây, Nam, Bắc toàn là thánh quả vị Nhị thừa, có người cúng dường suốt đời cho đến tạo tháp cho mỗi vị công đức của người ấy lớn chẳng thể tính lường, nhưng chẳng bằng công đức quy y Tam bảo (Kinh Giảo Lượng Công Đức).

5.       Quá khứ có một vị Tỳ kheo tên Sa Đẩu chuyên tụng danh hiệu Tam bảo suốt mười năm bèn chứng được sơ quả Tu đà hoàn, hiện nay ở thế giới Phổ Hương làm Bích Chi Phật (Kinh Mộc Hoạn Tử).

Do điều ghi ở trên chúng ta đủ biết quy y Tam bảo là việc rất quý báu. Đồng thời đức Phật cũng đã từng nói: Người quy y Tam bảo được Tứ thiên vương sai 36 vị thiện thần đi theo ủng hộ.

Nhưng chúng ta phải biết: Quy y Tam bảo tuy có thể cầu sự bình an và sung sướng ở hiện đời, nhưng mục đích cuối cùng của quy y Tam bảo là phải hướng về Tam bảo và làm cho chính mình cũng thành Tam bảo, nghĩa là đều có thể thành Phật; song điều thiết yếu là chẳng nên tự phụ mình, hoặc bỏ quên mình.

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT – Thiên thứ nhất: Tự Luận

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT

Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích nữ Tuệ Đăng Dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

——————————-

Thiên thứ nhất: Tự Luận

Chương 1: Thọ Giới, Học Giới và Trì Giới

I. THỌ GIỚI

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật. Vì thế hễ là đệ tử của Phật, bất luận tại gia hoặc xuất gia khi bước vào cửa Phật thì điều trọng đại nhất là phải thọ giới. Bằng không thì dù tự xưng là tin Phật, học Phật, cũng chẳng được Phật giáo thừa nhận. Nói một cách khác: Ấy là người ngoài cửa.

Giới luật của Phật giáo, bởi vì sự bất đồng trên thân phận Phật tử và sự sai biệt của đẳng cấp, do đó cũng chia ra các loại  có tên gọi như sau:

A.     Giới tại gia có 4 thứ:

1.       Tam quy giới

2.       Ngũ giới

3.       Bát quan trai giới

4.       Bồ tát giới

B       Xuất gia có 5 thứ:

1.       Sa di và Sa di ni giới

2.       Thức xoa ma ni giới

3.       Tỳ kheo

4.       Tỳ kheo ni giới

5.       Bồ tát giới

Ở đây có ba điểm cần phải bàn:

1.       Có người cho rằng tam quy không phải là giới. Ngũ giới trở lên mới gọi là giới. Thật ra tam quy cũng là giới, bởi vì nghĩa của giới là cấm ngăn. Sau khi quy y cũng có ba thứ cấm ngăn:

¨       Quy y Phật suốt đời chẳng quy y thiên ma ngoại đạo.

¨       Quy y Pháp suốt đời chẳng quy y tà thuyết ngoại đạo.

¨       Quy y Tăng suốt đời chẳng quy y đồ chúng ngoại đạo.

Vì thế, bản thân của quy y Tam bảo là có bao hàm đặc chất của một loại giới.

2.       Bát quan trai giới của người tại gia là 8 giới đầu tiên của hàng xuất gia Sa di, Sa di ni phải thọ. Do cửa ngõ này thông với con đường xuất gia, đóng chặt cửa sanh tử, vì thế gọi là Bát quan. Thêm vào đó, quá ngọ chẳng ăn gọi là trai, hợp lại là Bát quan giới trai.

3.       Bồ tát giới gần đây, tại Trung Quốc thông hành Phạm Võng Giới bổn. Giới bổn này có thể thông cho tất cả chúng sanh của tứ thánh lục phàm (chúng sanh địa ngục chẳng thể thọ giới, song cũng có người cho rằng cũng có thể thọ giới), vì thế chẳng phân tại gia hoặc xuất gia. Những năm gần đây ở Đài Loan truyền thọ Bồ tát giới, Tăng tục chia riêng, người xuất gia thọ Phạm Võng giới, người tại gia thọ 6 giới trọng và 28 giới khinh của Kinh Ưu bà tắc giới. Kỳ thực, đây là vấn đề cần phải thảo luận, vì trong Kinh Ưu bà tắc giới có nói rõ 6 giới trọng, 28 giới khinh là căn bản của giới Bồ tát, chứ không phải chính là Bồ tát giới.

Theo lý mà nói thì giới Bồ tát với Bồ tát giới, bất luận tại gia hoặc xuất gia đều bình đẳng.

Nhưng, Phật pháp tuy nói bình đẳng là nói bình đẳng đứng trên quan điểm tánh thể, chứ không phải nói bình đẳng ở trên sự bình đẳng không có già trẻ, không có tôn ty, không có trước sau. Phật nói mọi người đều có thể thành Phật, vì mọi người đều sẵn đủ Phật tánh, nhưng vì Phật tánh chưa hiển lộ nên họ chưa phải là Phật. Cho nên, ở trên giới luật của Phật giáo cũng có đẳng cấp và tầng lớp, từ Tam quy ngũ giới đến tầng cấp Tăng già, từng lớp tiến lên cao đều lấy Tam quy làm nền tảng, đến Bồ tát Tỳ kheo là đầy đủ. Người thọ Tam quy giới tự nhiên chẳng thể đạt được đến giới hạnh của Bồ tát Tỳ kheo giới. Trái lại, không có một vị Bồ tát Tỳ kheo nào chẳng thọ Tam quy giới. Vì thế nên biết Tam quy chỉ là phương tiện dẫn đạo nhập môn. Bồ tát Tỳ kheo mới là thân phận rốt sau tiến vào cửa Phật. Ba đời chư Phật ở tại nhân gian thành Phật cũng đều hiện tướng Tỳ kheo. Do đó, người thọ Tam quy giới rồi phải tiếp tục phát tâm cầu thọ Ngũ giới. Người thọ Ngũ giới rồi nên tiến thêm một bước, cầu thọ Bồ tát giới. Người thọ Bồ tát giới tại gia rồi như pháp phát tâm xuất gia, ấy là công đức vô lượng, song nếu không dẹp được duyên đời, không thể cạo tóc xuất gia thì nên thọ trì Bát quan giới trai mở một con đường xuất ly ngục tù sinh tử. Điều thiết yếu nhất là chẳng nên cho rằng tin Phật, quy y Tam bảo rồi là việc làm của người Phật tử đã xong.

II.      HỌC GIỚI

Thọ giới cố nhiên chẳng thể không có nghi thức thọ giới. Hoặc ở trước Sư Tăng phát tâm ân cần kính trọng khẩn thiết mà cảm phát giới thể, nhận được giới thể. Hoặc ở trước hình tượng Phật, Bồ tát, lễ bái sám hối thấy được hảo tướng, như thấy hào quang, thấy bông hoa, thấy Phật, Bồ tát đến xoa đảnh mà được thọ giới. Nhưng sự thọ giới đó chỉ là mở đầu cho một giai đoạn từng lớp của thân phận người đệ tử chứ tuyệt đối chẳng phải là giai đoạn hoàn thành, vì thế sau khi thọ giới cần phải học giới.

“Pháp môn vô lượng thệ nguyện học” của tứ hoằng thệ nguyện là pháp môn gì? Đều là học điều Phật học, hành điều Phật hành, chứng điều Phật chứng. Giới luật của Phật giáo là pháp môn rộng lớn dạy người học điều Phật học, hành điều Phật hành để đi đến chứng điều Phật chứng. Cũng có người chẳng hiểu, cho rằng giới chỉ là ngừa lỗi ngăn ác cũng giống như quy ước của xã hội và luật pháp của quốc gia. Thật ra, giới là cấm ngăn, cấm ngăn Phật tử chẳng làm ác. Nhưng giới điều của Phật giáo hữu hạn, tối thiểu chỉ 3 điều, tối đa là Tỳ kheo ni giới cũng chỉ có 348 điều, làm sao có thể thống nhiếp tất cả pháp môn được? Kỳ thật, giới luật của Phật giáo cấm ngăn chẳng làm ác cũng là cấm ngăn chẳng làm thiện. Điều nên làm phải làm, gọi là Tác trì; điều nên làm mà chẳng làm, là phạm giới. Điều chẳng nên làm thì chẳng làm, giọi là Chỉ trì; trái lại, điều chẳng nên làm mà làm, là phạm giới. Có một số người đối với sự nhận thức về Phật giới thì chỉ biết có một mặt tiêu cực là “ngừa lỗi ngăn ác” mà chưa thấy đến mặt tích cực là “làm các điều thiện”. Cho nên trong Du già Bồ tát giới bổn, 4 giới trọng, 43 giới khinh, cộng chung là 47 điều giới, trừ 4 điều giới căn bản ra, 43 điều kia, lại có thể đem 32 điều xếp vào lục độ, 11 điều gom vào tứ nhiếp. Cũng có thể nói lục độ, tứ nhiếp gồm hết Du già Sư địa giới bổn. Bốn giới trọng trước chưa phân biệt là phải gom vào đâu, song giới khinh đều do từ căn bản của giới trọng khai triển ra, giới khinh là phân chi của giới trọng, giới trọng là căn bản của giới khinh. Lục độ, tứ nhiếp là môn thiện hạnh lợi tha của Bồ tát Đại thừa. Như suy rộng ra thì lục độ bao trùm vạn hạnh, vạn hạnh thì có thể diễn hoá thành vô lượng pháp môn. Du già Bồ tát giới bổn là rút ra từ trong bộ Luận Du già sư địa.

Ngũ giới là giới điều căn bản nhất trong Phật giáo, nhưng cũng là căn bản của tất cả Phật giới, cho nên gọi ngũ giới là căn bản giới. Không luận là Bát giới, Thập giới, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni giới cho đến Bồ tát giới, không có một loại giới nào mà không căn cứ từ Ngũ giới mà sinh ra, cũng không có loại giới nào mà không lấy Ngũ giới làm trọng yếu hơn hết. Ngũ giới học chẳng tột thì tất cả giới không làm sao vào tay được. Ngũ giới giữ được thanh tịnh thì các giới khác giữ được rất dễ dàng.

Hãy xem 5 điều giới: sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu; đây là việc rất phổ thông, rất giản đơn; song khi nghiên cứu kỹ lưỡng về nội dung của ngũ giới, chúng ta sẽ thấy rằng chẳng phải là việc giản đơn và phóng túng như có một số người lầm tưởng. Đại sư Hoằng Nhất là vị Cao tăng thời cận đại nổi tiếng về luật học và trì luật. Nhưng Ngài tự nghiệm Ngài chẳng những không đủ tư cách của Tỳ kheo, cũng không đủ tư cách của Sa di, thậm chí cũng chẳng đủ tư cách Ưu bà tắc của mãn phần ngũ giới. Chúng ta thử nghĩ: Một vị Cao tăng trì luật nghiêm cẩn còn không dám tự khoe mình là người thanh tịnh mãn phần ngũ giới, thì bọn chúng ta có ai dám nói mình là người hành trì ngũ giới thanh tịnh chăng? Chỗ này cần phải hiểu rõ sự tự nghiệm của Đại sư Hoằng Nhất, tuyệt đối chẳng phải vì Ngài phá căn bản đại giới, mà là ý nói đến bộ phận vi tế của ngũ giới không làm sao cho được chu toàn. Do đó đủ thấy tính chất trọng yếu và nghiêm trọng của ngũ giới. Bởi vì ngũ giới là căn bản của các giới, các giới phần nhiều do ngũ giới triển khai, các giới có khuyết phạm thì ngũ giới ắt hẳn chẳng tuyệt đối thanh tịnh. Một điểm này, hy vọng người thọ giới rồi thiết thực chú ý chẳng nên tâm cao ý cuồng cho mình đã là Phật tử thanh tịnh. Vậy, nếu thọ giới mà chẳng học giới thì đâu biết được sự nghiêm chỉnh và vi diệu của giới luật!

   III.      TRÌ GIỚI

Mục đích của thọ giới và học giới là trì giới. Nếu như học mà không thọ không trì, ấy là nói tên món ăn không no bụng đói, là đếm của báu cho người. Phật chế giới là muốn cho Phật tử tuân theo thực hành, chẳng phải để cho Phật tử tăng trưởng sự hiểu biết giúp cho việc đàm luận để đi phê bình Hoà thượng này phạm giới, ni cô kia chẳng giữ quy cũ. Đây cũng chính là việc rất đau lòng trong cửa Phật ngày nay. Việc xấu trong cửa Phật hơn phân nửa là do Phật tử truyền bá ra, lại còn thêm dầu thêm tương, càng truyền càng xa sự thật. Ông nói việc xấu của tôi, tôi vạch thẹo của ông, chỉ sợ nói chẳng độc, chỉ sợ vạch chẳng sâu, đến cuối cùng khiến cho người nghe có cảm tưởng rằng thật không có một đệ tử Phật nào kể ra thanh tịnh cả! Đây chẳng những huỷ diệt danh dự của chính Phật tử, là cũng là phá nát tín tâm của thiện tín, ấy là làm tổn hoại sự trang nghiêm của Tam bảo.

Nếu như đệ tử Phật, người nào cũng đều học giới, trì giới, thì người phạm giới chắc chắn giảm bớt, không còn có sự phê bình công kích người phạm giới. Bởi vì một người chân chính trì giới, không bao giờ muốn mình phạm giới. Nếu người ấy thấy người khác phạm giới, người ấy chỉ đến trước mặt người phá giới khuyến cáo cho đến ân cần khuyên can ba lần. Qua ba lần khuyên can, người phá giới kia nghe thì tốt, bằng không nghe thì làm phép yết ma (Chế độ Tăng đoàn hội nghị). Nếu không có cách làm cho người phạm giới tuân hành, thì trong lòng mỗi người chúng ta rất đau buồn cho người phạm giới. Bằng muốn nói, có thể trong thời tụng giới Bố tát vì người phạm giới cử tội để đại chúng xử đoán, tuyệt đối chẳng nên thấy đâu nói đó, thấy người liền nói chẳng phân trường hợp, chẳng kể thời gian, chẳng cần biết người nghe là ai. Nếu chẳng được như thế, thì người nói lỗi người khác cũng là người phạm giới. Nếu như nói đúng, thì chính người cũng phạm giới “nói lỗi tứ chúng”; nếu nói chẳng đúng sự thật thì còn phạm thêm giới “vọng ngữ”, nếu như người bị nói là người xuất gia thì người nói lại phạm thêm giới “huỷ bang Tam bảo”. Ba điều giới này đều là giới trọng của Bồ tát, không luận là tại gia hay xuất gia đều phạm tội Ba la di.Tội Ba la di là tội lớn, hiện tại mất đi giới thể, sau khi chết bị đoạ vào địa ngục một thời gian dài bằng 16 ngàn năm tuổi thọ của trời Tha Hoá Tự Tại, tương đương với 92 vạn 1600 vạn năm của nhân gian. Vì thế, một người trì giới nghiêm cẩn tuyệt nhiên chẳng khinh suất nói người khác phạm giới. Nếu như người thường ưa thích nói người khác phạm giới, thì chính người đó trước tiên là người thường hay phạm giới.

Ở đây có một điểm cần phải chú ý: Đoạn trước có nói qua giới luật của nhà Phật là có thứ lớp giai đoạn, vì thế ở trên thân phận mà nói cũng có sự phân biệt rất nghiêm khắc. Theo sự quy định trong phép yết ma, Phật tử phạm giới nếu chẳng tự phát lồ (vì phạm giới có khinh trọng, nên hoặc ở trước một vị, ba vị, bốn vị Tỳ kheo thanh tịnh phát lồ sám hối, hoặc ở trước đại chúng Tăng phát lồ sám hối), thì người thấy người ấy phạm giới phải khuyên người ấy phát lồ sám hối, phải ba lần can gián, nếu chẳng nghe, nên ở tại đại chúng làm phép yết ma cử tội người ấy để được đại chúng hội nghị bàn về phương thức xử phạt người ấy. Nhưng cử tội cũng có sự hạn chế của thứ lớp loại biệt. Tỳ kheo có thể cử tội của bảy chúng. Tỳ kheo ni thì trừ Tỳ kheo ra có thể cử tội sáu chúng. Chúng xuất gia có thể cử tội chúng tại gia. Chúng tại gia không được cử tội chúng xuất gia. Tuyệt đối chẳng được tuỳ tiện cử tội của người khác. Đây không phải Phật bày ra để che chở Tỳ kheo, nhưng do vì Tỳ kheo có thể nghiên cứu tất cả giới luật, có thể dạy răn tất cả mọi người, còn các chúng khác đều không có khả năng ấy. Tỳ kheo ni chẳng được nghiên cứu giới  Tỳ kheo thì làm sao biết Tỳ kheo phạm giới gì? Hai chúng tại gia chẳng cho nghe tụng đại giới, đâu biết rõ nội dung của Đại luật mà chỉ trích người xuất gia phạm giới? Người xuất gia có quy chế Tăng đoàn của người xuất gia, người xuất gia phạm giới tự có sự chế tài của Tăng đoàn, người tại gia đâu được vượt bực phạm thượng cử tội? Đồng thời, một người tại gia chưa thông Đại luật, chưa có nhận thức thông suốt về khai giá trì phạm của Đại luật mà cử tội người xuất gia thì cử tội không đúng. Vì thế nếu người xuất gia phạm giới, chúng tại gia chẳng những không được cử tội, mà ngay cả can gián cũng không đủ tư cách nữa.

   IV.  LẤY GIỚI LÀM THẦY

Nếu như mọi người trì giới, Phật giáo tất nhiên hưng thịnh, Nhưng, đề xướng sự trang nghiêm của luật chế trong xã hội Phật giáo của Trung Quốc lại rất khó khăn. Đoạn trước có nói đến pháp yết ma của Tăng đoàn vốn là biện pháp tốt nhất để đệ tử nhà Phật tự thanh lọc, tự kiểm điểm, nhưng ngặt vì Phật giáo Trung Quốc không đoàn kết. Phật giáo Trung Quốc của thời Đại Lục ( trước năm 1949), các tòng lâm lớn có sự chế tài của thanh quy, người phạm trọng giới thì bị đuổi đi. Tòng lâm đều tự có thanh quy, còn các chùa tư thì lại chẳng chịu sự cai quản của giáo hội cấp trên, vì thế chỗ này đuổi đi chỗ kia lại dung chứa, ở chỗ này phạm quy cũ nặng, có thể đến chỗ kia tái phạm, cho nên đối với vấn đề phạm giới cũng chẳng được xem trọng. Đồng thời, sự đuổi đi của tòng lâm thường thường là do quyền lực của một thiểu số Chấp sự Tăng, chứ không phải hiệu quả từ trong pháp yết ma của Đại chúng Tăng ra, cho nên khó tránh khỏi không có sự quan hệ ân oán của một thiểu số người. Không giống như tinh thần căn bản của chế độ Tăng đoàn, sự quyết nghị của Tăng đoàn tức là sự quyết nghị của đại biểu mười phương đại chúng. Nếu phạm đại giới sau khi Tăng đoàn chế tài thì cũng đồng như sự chế tài của mười phương đại chúng Tăng, một chỗ tẫn xuất (đuổi đi), thì tất cả chỗ chẳng cho dung thân; bởi vì Tăng phòng ở mọi nơi đều thuộc Tăng đoàn. Thể theo giới luật, sau khi làm phép yết ma là được sự chấp thuận của mười phương Đại chúng Tăng. Sau khi Phật diệt độ, Phật tử lấy giới làm thầy, giới do Phật chế, tôn trọng giới luật tức là tôn trọng Phật; là Phật tử phải tôn trọng giới luật, vì thế, chỉ cần một lần phạm căn bản đại giới tức là đã xả giới hoàn tục. Đây là tinh thần căn bản của Phật chế. Vậy mong chúng ta khôi phục lại tinh thần căn bản này, bằng không chỉ là phê bình người khác phạm giới, thế nên người phạm giới càng ngày lại càng nhiều.

Có lấy giới làm thầy, chúng ta mới có thể chính mình trì giới, cùng trợ giúp và bảo hộ người khác trì giới. Nếu không đa số người chẳng trì giới, người trì giới lại sẽ mất đi sự bảo hộ đáng lẽ ra phải có, ấy thật là pháp nhược ma cường vậy.

Chương 2: Sự Truyền Thừa Và Hoằng Dương Giới Luật


I.      VÌ SAO CẦN CÓ GIỚI LUẬT?

Chương trước chúng ta đã nói qua những khái niệm có liên quan giới luật. Đến chương này chủ đề nói về những điều có liên quan đến giới luật. Vì đây là một môn học mà trong quá trình phát triển từ lúc sơ khởi đến nay đã cho chúng ta thấy được sứ mạng của nó về mặt tinh thần, nhờ đó mà chúng ta có thể xác định được triển vọng tương lai của nó.

Tục ngữ có nói: “Gươm đao tuy bén, song chẳng chém người vô tội”. Pháp luật của quốc gia đối với người dân tuân giữ pháp luật vốn chẳng có tác dụng, song vì muốn bảo vệ sự an toàn và lợi ích cho người tuân giữ pháp luật nên cần phải có. Lại nữa, pháp luật cần phải thiết lập vì trong xã hội và trong nhân loại, người làm hại quần chúng không thể tuyệt đối không có. Đồng thời, ranh giới thiện ác giữa người tuân giữ pháp luật và người phạm pháp chỉ xê xích ở một niệm. Vì răn nhắc mọi người chẳng nên vượt qua đèn đỏ ở ngã tư đường này, thế nên cần phải có pháp luật. Để bảo hộ mọi người chẳng nên theo một niệm sai lầm mà tạo thành cái hận nghìn đời, vì thế cần phải có pháp luật.

Phật giáo có giới luật, cũng là như thế. Trong mấy năm đầu tiên sau khi Đức Phật thành đạo, vốn không có giới luật. Nhân vì thời kỳ đầu tiên, đệ tử Phật đều là những bậc hảo tâm xuất gia, căn khí của các vị ấy cũng đặc biệt sâu dày, thường thường sau khi nhận được sự khai thị của Phật, chỉ hai ba lời điểm hoá, họ lập tức chứng nhập thánh vị, thánh quả. Tiểu thừa Sơ quả dứt tà dâm, Tam quả dứt tất cả dâm. Sơ quả cày đất, côn trùng lìa lưỡi cày bốn tấc, trộm cắp, vọng ngữ đương nhiên chẳng còn có. Vì thế Tăng đoàn của thời kỳ đầu tiên không cần phải chế định giới luật để kiểm thúc đại chúng, đại chúng đều vốn thanh tịnh.

Đến khi Phật thành đạo, 5 năm trở về sau mới có vị Tỳ kheo do sự thúc bách của mẹ ở tục gia đã cùng với người vợ cũ của mình phạm giới dâm. Giới luật của Phật giáo cũng từ đây lần lượt chế định. Đây là bảo hộ sự thanh tịnh trang nghiêm của Tăng đoàn, cũng là vì bảo hộ giới thể của các Tỳ kheo chẳng mất.

Tuy giới luật của Phật giáo rất nhiều, nhưng đều chẳng rời nguyên tắc cơ bản của ngũ giới. Tất cả giới, phần nhiều đều do trong ngũ giới phân chia, triển khai ra. Mục đích của tất cả giới phần nhiều cũng vì bảo hộ sự thanh tịnh của ngũ giới. Ngũ giới là căn bản đạo đức làm người, cũng là đức tính căn bản của luân lý. Chỗ cứu cánh của ngũ giới lại là chánh nhân của liễu sinh thoát tử. Ngũ giới, nếu trì được tuyệt đối thanh tịnh, thì cách Tịnh độ của chư Phật chẳng còn xa. Còn Tỳ kheo giới là chiếc cầu đưa đến Niết bàn, và cũng là cảnh giới do ngũ giới thăng hoa.

Công năng của giới là dứt hẳn nghiệp duyên, nghiệp nhân trong đường sinh tử. Như nói: Muốn biết đời quá khứ, hãy xem sự hưởng thụ ngày nay; muốn biết đời vị lai, hãy xem những điều tạo tác ở hiện tại! Cần nhất là chúng ta không tạo nhân sinh tử, dù chẳng nghĩ lìa sinh tử, mà trong sinh tử cũng không tìm ra tung tích của chúng ta.

Vì thế, Phật chế định giới luật không phải là để bó buộc đệ tử của mình, mà chính vì con đường giải thoát của Phật tử, và cũng là phương thuốc ngăn ngừa sự hư đốn của Tăng đoàn. Phật tử, nếu không có giới luật, làm tiêu chuẩn phép tắc cho sinh hoạt thì liễu thoát sinh tử không phải dễ đâu. Tăng đoàn như không có giới luật làm cương lĩnh thống nhiếp giáo hoá thì tiền đồ của Phật giáo không những tan rã mà còn đen tối nữa.

Do đó, lúc Đức Phật sắp nhập diệt, Ngài dạy các Phật tử đời sau phải nên lấy giới luật làm thầy. Cũng như một quốc gia, khi một vị nguyên thủ qua đời, có thể chọn vị nguyên thủ thứ hai, thứ ba cho đến một trăm, một ngàn vị nguyên thủ, chỉ cần hiến pháp quốc gia tồn tại, mọi người y theo đó mà làm. Chính chế, chính thể của quốc gia này chẳng những không thay đổi, mà còn đạt đến sự vĩnh cửu. Phật giáo chỉ cần giới luật tồn tại, đệ tử của Phật giáo và bản chất của Tăng đoàn cũng được trường tồn ở thế gian.

     II.       SỰ LƯU TRUYỀN CỦA GIỚI LUẬT

Tục ngữ có nói: “Trung ngôn nghịch nhĩ, lương dược khổ khẩu” (lời ngay trái tai, thuốc hay đắng miệng). Phàm quy định một sự câu thúc tuy khiến cho người ta dừng bước, song một sự hướng thượng để đạt đến cảnh giới cao nhất thì khiến cho mọi người thích hướng đến hơn. Nhưng cũng chưa chắc là giúp cho mọi người bước lên con đường hướng thượng. Hẳn là có một cảnh giới tốt đẹp đang chờ đợi mỗi người, song trước khi đến đó, đầu tiên phải trả một giá đắt là sự gian nan cay đắng. Hãy xem người trượt tuyết, từ trên cao trượt xuống thấp mau chóng dễ dàng. Vì thế, hướng lên cao, tuy có được cảnh giới xinh đẹp, song trước tiên phải chịu gian khổ. Trượt xuống thấp, tuy có cái nguy hiểm mất mạng, mà ngay nơi đó lại rất dễ dàng.

Do đó, ngay sau khi Phật diệt độ, trong chúng đệ tử Phật có ông Tỳ kheo ngu si tên Bạt Nan Đà cảm thấy vô cùng thích thú, ông ta nói: “Lão già ấy chết đi là tốt, lúc lão ấy còn tại thế, quy định điều này phải làm, điều kia không cho làm, nay lão ấy chết rồi chúng ta được tự do” (Trường A-hàm, Kinh Du Hành). Lời này truyền đến tai Tôn giả Ca-diếp, Ngài cảm thấy rất đau buồn. Ngài nghĩ: “Nếu quả thật như vậy, tinh thần và công đức cứu thế của Phật giáo, nhân vì Đức Phật nhập diệt mà cũng theo đó kết thúc sao?”. Nhớ lời dạy sau cùng của Đức Phật lúc sắp nhập diệt, mở đầu Ngài nói: “Này các Tỳ kheo! Sau khi ta diệt độ phải nên tôn trọng, trân kính Ba la đề mộc xoa (giới luật) như người đi trong đêm tối gặp ánh sang, như người nghèo gặp của báu. Phải biết: Giới là thầy của các ông” (Kinh Di Giáo). Nhân đó Tôn giả quyết tâm triệu tập các vị đại đệ tử đương thời kiết tập Luật tạng.

Đó là lần kiết hạ an cư thứ nhất sau khi Đức Thế Tôn Thích Ca nhập diệt, cũng là lần kiết tập kinh luật thứ nhất cử hành tại hang Thất Diệp với sự tham gia của 500 vị đại A-la-hán. Ngay sau khi Tôn giả A-nan tụng xong Kinh tạng, thì Tôn giả Ưu-ba-ly tụng Luật tạng. Sau khi được đại chúng ấn chứng thông qua, bộ luật đầu tiên nhất được bố cáo là hoàn thành. Nhưng sự kiết tập của thuở ấy dường như không có ghi chép lại thành văn tự, chỉ là thống nhất do miệng tụng, tâm ghi nhớ mà thôi.

Giới luật lưu truyền như thế, nhân vì phạm vi truyền bá của Phật giáo rộng lớn, chủng tộc và ngôn ngữ Ấn Độ lại rất phức tạp; đồng thời, ngay sau khi Phật diệt độ, có một số các trưởng lão Tỳ kheo không nhận lời mời của ngài Ma-ha-ca-diếp, vì thế không tham dự hội kiết tập lần thứ nhất ở hang Thất Diệp. Từ đó về sau, Phật giáo dưới sự lãnh đạo của các Trưởng lão Tỳ kheo. Tuy sinh hoạt Tăng đoàn không khác thời Phật bao nhiêu, nhưng vì đã mất trung tâm lãnh đạo nên chưa thể thống nhất, mỗi vị Trưởng lão giáo hoá một phương đều có cách thức riêng. Qua một thời gian dài, do sự bất đồng của hoàn cảnh địa lý, do sự cách ngăn của đây với kia mà mọi người đối với giáo nghĩa của Phật sinh ra biết bao kiến giải bất đồng. Những kiến giải bất đồng này đưa đến kết quả phân chia bộ phái, đó là việc xảy ra từ một trăm năm đến ba bốn trăm năm sau Phật diệt độ.

Sau Phật diệt độ một trăm năm, có cuộc kết tập lần thứ hai tại Phệ Xá Ly, đây là mở đầu cho giai đoạn phân chia bộ phái. Vì thế, đối với sự lưu truyền của giới luật cũng do sự phân chia bộ phái mà thành giới luật bộ phái.

Mỗi bộ phái đều có giới luật riêng để lưu truyền trong bộ phái mình, đến nỗi Luật tạng kết tập lần đầu tiên, hiện nay đã không còn thấy được bộ mặt bổn lai của nó nữa. Nhưng Luật tạng của các bộ phái hiện đang lưu truyền, không luận là Thiện Kiến Luật dịch thành văn Tây Tạng, và Tứ bộ Quảng Luật của hệ Hán văn thuộc Bắc truyền, dầu mỗi bộ có thêm bớt các tiểu tiết, song tinh thần và nguyên tắc căn bản đại thể vẫn nhất trí. Vì thế, sự tồn tại của Luật tạng là một sự thật không thể hoài nghi, và cũng được các học giả thời gần đây công nhận là một bộ phận Thánh điển trung thực nhất của Phật giáo Nguyên thuỷ để lại. Giả sử như có sự phân biệt về Luật bộ này xuất hiện, cũng là việc sau Phật diệt độ một trăm năm.

Căn cứ vào truyền thuyết, sau khi kiết tập Luật tạng lần thứ nhất, từ Tôn giả Ca Diếp truyền đến Tôn giả A Nan, rồi đến Mạc Điền Địa, Xá Na Ba Đề Ưu Ba Quật Đa; 5 đời dưới Ngài Ưu Ba Quật Đa, có 5 vị đệ tử, do mỗi vị đối với nội dung Luật tạng có sự lấy bỏ bất đồng mà Luật tạng phân chia làm 5 bộ:

1.       Đàm Vô Đức (Tứ Phần Luật)

2.       Tát Bà Đa Bộ (Thập Tụng Luật)

3.       Ca Diếp Di Bộ (Giải Thoát Giới Bổn Kinh)

4.       Sa Di Tắc Bộ (Ngũ Phần Luật)

5.       Bà Thô Phú La Bộ ( chưa truyền sang Trung Quốc)

Thuyết phân phái 5 bộ căn cứ theo phẩm Hư Không Mục Phân Sơ Thanh Văn trong kinh Đại Tập quyển thứ 20. Nhưng trong kinh này, dù nêu 5 bộ mà nói danh mục của 6 bộ, bộ thứ 6 là Ma Ha Tăng Kỳ Bộ. Theo truyền thuyết, đây là việc Đức Phật thọ ký trước, vì đức Phật tiên liệu đến sự truyền thừa phân phái. Điều này trong Kinh Xá Lợi Phất Vấn cũng có sự thọ ký tương tự, lại phân làm 8 phái. Nhưng căn cứ vào sự khảo cứu sự thật lịch sử, sự phân chia bộ phái Phật giáo trong khoảng thời sau Phật diệt độ một trăm đến ba trăm năm có thể nói là cực thịnh một thời, do hai bộ phái căn bản là Thượng toạ bộ và Đại chúng bộ chia ra nhiều bộ phái cộng với 2 bộ phái căn bản thành ra 20 bộ phái. Hiện nay tổng hợp các tư liệu của Nam truyền và Bắc truyền để lại thì 18 bộ ấy chưa chắc hoàn toàn là sự thật lịch sử, và cũng chưa chắc là chỉ có 18 bộ, bởi vì dưới các bộ phái lại phân phái, phân rồi lại phân nữa, đến sau cùng có những bộ phái lệ thuộc hệ thống mà bây giờ không làm sao tra cứu rõ ràng được, tỷ như Bắc Đạo phái chẳng hạn. Căn cứ vào Luận Trí Độ quyển thứ 63 nói, đương thời giáo đoàn phân ra làm 500 bộ, đây cũng chưa chắc là sự thật. Nhưng theo sự nghiên cứu của người thời gần đây, danh mục của các bộ phái Phật giáo nhiều đến ước chừng hơn 40 loại (xem Hải Triều Âm quyển 45 tháng giêng, tháng hai hiệp san). Theo lý mà nói, mỗi bộ phái đều có bổn luật riêng để tụng, nhưng trên sự thật thì thấy rằng rất ít bộ phái có bổn luật truyền riêng. Bổn luật dịch thành Hán văn chỉ có 5 bộ phái, hiện tại phân hệ theo biểu đồ như sau:

Nhân vì Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Luật đồng dạng xuất phát từ Tát Bà Đa Bộ, cho nên có người nói có lẽ là biệt dịch của Thập Tụng Luật (như Đại sư Thái Hư), cũng có người nói là Tân Tát Bà Đa Bộ, tuy nói cùng với Thập Tụng Luật đồng bộ, nhưng thời gian và địa điểm lưu truyền chẳng đồng, nên không có nghi vấn. Lại vì Ẩm Quang Bộ chỉ dịch ra giới bổn, chưa dịch ra Quảng Luật, vì thế tuy có 6 bộ mà ở tại Trung Quốc thường chỉ nói là 4 luật. Bốn luật cùng với năm luận đồng tên: Tỳ Ni Mẫu Luận, Ma Đắc Lặc Ca Luận (hai bộ luận này là căn cứ Tân Tát Bà Đa Bộ Luật giải thích ra); Thiện Kiến Luận (giải thích Tứ Phần Luật); Minh Liễu Luận (của Pháp sư Phật Đà La A Na Hàm thuộc Chánh Lượng Bộ[1], Ngài y cứ vào Chánh Lượng Bộ Luật tạo ra, luật này chưa sang Trung Quốc). Hợp lại gọi là 4 Luật, 5 Luận của Luận tạng Hán văn. Chính vì thế, trong thế giới Phật giáo hiện hành, Luật tạng của hệ Hán văn là một hệ phong phú hơn hết.

Nhìn trên đồ biểu chúng ta thấy Thượng toạ bộ chiếm đa số, còn Đại chúng bộ chỉ có một bộ luật mà thôi (Tăng Kỳ Luật thuộc Đại Chúng Bộ). Đây là một sự kiện đáng tiếc, vì sự phát triển của Đại chúng bộ phát sinh ra Đại thừa Phật giáo mà Luật và Luận (về luật) của Đại chúng bộ lưu truyền lại quá ít.

   III.       LỊCH SỬ LUẬT BỘ TRUYỀN SANG TRUNG QUỐC

Trung Quốc có giới luật bắt đầu từ thời Tam Quốc, đời Tào Nguỵ, niên hiệu Gia Bình năm thứ 2 (250 TL), do Ngài Đàm Ma Ca La người Trung Thiên Trúc ở chùa Bạch Mã tại Lạc Dương dịch Tăng Kỳ Giới TâmTứ Phần Yết Ma.

Ngoài ra, Luật bộ được dịch trải qua các thời đại gian như sau:

1.       Thập Tụng Luật: Đời Diêu Tần, niên hiệu Hoằng Thỉ, từ năm thứ 6 đến năm thứ 8 (404-406 TL) do Cưu Ma La Thập dịch 58 quyển, rồi lại do Tỳ Ma La Xoa dịch lại thành 61 quyển.

2.       Tứ Phần Luật: Đời Diêu Tần, niên hiệu Hoằng Thỉ, từ năm thứ 12 đến năm thứ 15 (410-413 TL) do Phật Đà Da Xá và Trúc Phật Niệm dịch 60 quyển.

3.       Tăng Kỳ Luật: Đời Đông Tấn, niên hiệu Nghĩa Hy năm thứ 14 (418 TL), do Phật Đà Bạt Đa La và Pháp Hiển dịch 40 quyển.

4.       Ngũ Phần Luật: Đời Lưu Tống, niên hiệu Phổ Bình, năm thứ I (423 TL), do Phật Đà Thập và Trí Thắng dịch 30 quyển.

5.       Giải Thoát Giới Bổn Kinh: Đời Nguyên Nguỵ, do Bát Nhã Lưu Chi dịch 1 quyển, thời gian ước chừng vào khoảng 538-544 TL.

6.       Nhất Thiết Hữu Bộ Luật: Đời Đường, từ Võ Tắc Thiên niên hiệu Cửu Thị năm thứ nhất, đến Duệ Tông niên hiệu Cảnh Vân năm thứ 2 (700-711 TL), do Nghĩa Tịnh Tam Tạng dịch, gồm 18 loại, 198 quyển.

Ở trên đã nói địa điểm dịch ra và thời gian thịnh hành, Thập Tụng Luật tuy được dịch ra ở Quan Trung từ thời Diêu Tần, nhưng mãi đến thời Lục Triều mới được thịnh hành ở vùng hạ lưu sông Trường Giang. Tứ Phần Luật địa điểm khi dịch cũng ở Quan Trung (Thiểm Tây) và được dịch sau Thập Tụng Luật chỉ có 7 năm, đến đời nhà Tuỳ mới có người hoằng dương, và đến đời nhà Đường, do Luật sư Đạo Tuyên cực lực hoằng dương mà thành một phái Luật tông duy nhất ở Trung Quốc. Tăng Kỳ Luật dịch sau Tứ Phần Luật 5 năm, và được dịch tại chùa Đạo Tràng tại Kiến Khang (Nam Kinh), đến thời Lục Triều mới được hoằng dương ở phương Bắc. Ngũ Phần Luật sau khi được dịch ở chùa Long Quang tại Kiến Nghiệp (cũng là Nam Kinh) ít có người hoằng dương. Giải Thoát Giới Bổn Kinh so với Ngũ Phần Luật trễ hơn 100 năm, nội dung của Giải Thoát Giới Bổn Kinh cùng với Thập Tụng Luật tương đồng cho nên không cần phải nói. Hữu Bộ Luật dịch ra sau Ngũ Phần Luật gần 300 năm, và sau Luật sư Đạo Tuyên (đời Tuỳ Văn Đế, niên hiệu Khai Hoàng thứ 16, đến Đường Cao Tông niên hiệu Càn Phong thứ 2 (596-667 TL) khoảng 40-50 năm. Luật tông đương thời chính là thời kỳ hưng thịnh của Tứ Phần Luật. Vì thế, Ngài Tam Tạng Nghĩa Tịnh tuy tinh thông về Hữu Bộ, nhưng ngặt vì đơn độc nên chẳng làm gì được. Về nội dung của luật, có thể nói Hữu Bộ là nhiều nhất, song đáng tiếc là đến bây giờ vẫn chưa có người tiếp nối hoằng dương.

   IV.  SỰ HOẰNG DƯƠNG GIỚI LUẬT TẠI TRUNG QUỐC

Giáo pháp của Đức Phật thì phát triển đồng bộ, mà Tam vô lậu học (Giới, Định, Tuệ) là cơ sở và cũng là trung tâm của sự phát triển đồng bộ này. Tam vô lậu học như cái đỉnh ba chân, thiếu một chẳng được. Ngay từ thời Đức Phật còn tại thế, đệ tử của Phật cũng đã chia nhau thực hiện sự phát triển đồng bộ này, vì thế mà các vị đại đệ tử mỗi vị đều có sở trường riêng, đều trở thành đệ nhất. Nhưng giới luật lại là cơ sở của Tam học, nếu chẳng trì giới thì sự tiến lên con đường giải thoát trở thành vọng tưởng. Vì thế tất cả đệ tử của Phật đều phải trì giới, song tâm đắc trong sự nghiên cứu có sâu cạn, cho nên trong đó Tôn giả Ưu Ba Ly là trì giới đệ nhất.

Chính vì sự diễn biến của một xu thế trì giới này, đến khi Trung Quốc có xuất hiện các Tỳ kheo chẳng học giới, người ta mới đặc biệt lập thành danh từ “Luật tông” để gọi các Tỳ kheo học giới. Đây là điều bất hạnh của Phật giáo Trung Quốc. Tiết trên đã nói qua, Trung Quốc đã có giới luật và Tỳ kheo người Trung Quốc từ thời đại Tam Quốc, đương thời do bộ Tăng Kỳ Giới TâmTứ Phần Yết Ma đã được dịch ra và thỉnh các vị tăng Ấn Độ lập pháp yết ma truyền thọ Tỳ kheo giới. Nhưng vì đại bộ của giới kinh chưa đến cho nên cũng không thể hoằng dương, mãi đến khi Thập Tụng Luật được dịch ra khoảng 50 năm, đến thời đại Lưu Tống mới có người hoằng dương. Khoảng giữa Tống, Tề cũng có người hoằng dương Tăng Kỳ Luật, đến sau đời Tuỳ, Đường, do thế lực mạnh mẽ của Tứ Phần Luật mà giới luật đạt đến chỗ cao tột. Ở Trung Quốc chỉ có Tứ Phần Luật là nổi bật hơn hết.

Sự hoằng dương Tứ Phần Luật bắt đầu vào thời Nguyên Nguỵ Hiếu Văn Đế, từ Luật sư Pháp Thông Đài Bắc truyền xuống Đạo Phú, Huệ Quang. Đệ tử của Huệ Quang có Đạo Vân, Đạo Huy. Đệ tử của Đạo Huy có Hồng Lý, Hồng Ẩn. Đệ tử của Đạo Vân và Đạo Huy có Hồng Tuân. Ngang với Đàm Ẩn có Đạo Lạc. Đệ tử của Đạo Lạc có Pháp Thượng. Đệ tử của Pháp Thượng là Pháp Nguyện. Đệ tử của Đạo Vân có Đạo Hồng. Dưới Đạo Hồng có Trí Thủ. Dưới Trí Thủ có Đạo Thế, Đạo Tuyên, Huệ Mãn. Các vị đại đức này đều có Luật sớ hoặc Luật sao. Đến Luật sư Đạo Tuyên thì sự hoằng dương Tứ Phần Luật đạt đến chỗ cao tột. Luật sư Đạo Tuyên thành tựu sự trứ thuật đối với sách luật đến giai đoạn mà trước kia chưa từng có. Ngài dùng Hoá giáo và Chế giáo để thu nhiếp cả một đời thuyết giáo của Đức Phật. Lại dùng Tam giáo để phán nhiếp Hoá giáo. Tam giáo: Tánh không (bao gồm tất cả pháp Tiểu thừa), Tướng không (bao gồm tất cả Thiền giáo Đại thừa), Duy thức viên giáo ( bao gồm tất cả thâm giáo Đại thừa). Như vậy Tam giáo bao gồm hết pháp Đại thừa, Tiểu thừa. Lại nơi chế giáo phân làm Tam tông: Thật pháp tông (căn cứ vào Tát Bà Đa Bộ nhận giới thể là sắc pháp). Giả danh tông (Đàm Vô Đức Bộ, căn cứ vào Thành Thật Luận, nhận giới thể là phi sắc phi tâm). Viên giáo tông (Tuyên Luật sư tự nhận giới thể là thức tạng huân chủng). Vì Luật sư Đạo Tuyên là người rất thông Phật học, Ngài dùng quan điểm của Duy thức học để nghiên cứu Tứ Phần Luật, dung thông Đại thừa và Tiểu thừa, cho rằng nghĩa của Tứ Phần Luật thông với Phật pháp Đại thừa. Nhân vì có một Luật sư vĩ đại, với tư tưởng trác việt, hành trì nghiêm cẩn, trứ thuật phong phú, hoằng dương tinh nghĩa của Tứ Phần Luật, mà cơ sở của hệ thống giới luật tại Trung Quốc từ đây được an định. Đó là một phái Tứ Phần Luật có sự truyền thừa. Song, theo Luật sư Linh Chi Nguyên Chiếu thì Luật sư Đạo Tuyên là vị tổ thứ 9 theo biểu đồ sau:

Hệ thống truyền thừa trong biểu đồ này căn cứ vào tư liệu của quyển Giới Học Thuật Yếu (tr. 185-187) của Pháp sư Tục Minh. Song hệ thống truyền thừa chưa chắc là cố định như thế.

Như truyện Huệ Quang trong  Đường Cao Tăng Truyện quyển 27 đặt Hồng Lý cùng với Đạo Vân, Đạo Huy ngang nhau: “Đạo Vân ở đầu, Đạo Huy ở sau, Hồng Lý ở giữa”. Đồng quyển ấy, trong truyện Đàm Ẩn nói Đàm Ẩn “là đệ tử của Huệ Quang”. Lại nói đến Hồng Lý trứ tác Luật Sao 2 quyển “về sau lại vì Trí Thủ mở rộng chữ nghĩa, khéo bày cương mục hợp thành 4 quyển”. Những điểm này là những quan hệ phức tạp trên hệ thống truyền thừa. Về tên Đạo Lạc, trong phần phụ lục của truyện Đàm Ẩn, chỉ nói: “Lúc ấy có Sa môn trì luật tên Đạo Lạc, hạnh giải gồm đủ, cả hai được mọi người ngưỡng mộ ngợi khen”. Lại nói: “Cho nên ở đất Nghiệp có lời nói: thông suốt Luật tông chỉ có Đàm Ẩn và Đạo Lạc”. Đạo Lạc là đệ tử của ai, trong truyện chưa ghi rõ. Biểu đồ ở trên chỉ ghi đại khái mà thôi. 

Cũng y cứ vào Tứ Phần Luật, đồng thời với Luật sư Đạo Tuyên gồm có ba phái:

1.       Nam Sơn Đạo Tuyên

2.       Tướng Bộ Pháp Lệ

3.       Đông Tháp Hoài Tố

Luật sư Pháp Lệ là đệ tử của Hồng Uyên. Đạo Tuyên cũng đã từng cầu học nơi Pháp Lệ. Hoài Tố cũng từng cầu học nơi Đạo Tuyên và Pháp Lệ. Nhưng vì kiến giải của các ngài bất đồng vì thế phân làm ba phái. Chỗ bất đồng chủ yếu của các Ngài là chỗ căn cứ: Đạo Tuyên y cứ vào Duy Thức của Đại thừa, Pháp Lệ y cứ vào giáo lý Thành Thật của Tiểu thừa, Hoài Tố y cứ vào giáo lý Câu Xá của Tiểu thừa. Ba phái của các Ngài đều có nhiều đệ tử, đều có nhiều trứ thuật, nhưng một tông Nam Sơn là nổi bật hơn hết. Luật của tông Nam Sơn thông cả Đại thừa, Tiểu thừa, đặc biệt được người Trung Quốc có căn khí Đại thừa hoan nghinh, vì thế trải qua thời gian lâu dài chẳng suy, đến đời Nam Tống mới kết thúc một giai đoạn.

Đệ tử nổi tiếng của Luật sư Đạo Tuyên có Đại Từ, Văn Cương, Danh Khác, Châu Tú, Linh Nga, Dung Tế và Trí Nhân (người xứ Tân La); đệ tử thọ giới có Hoằng Cảnh, Đạo Ngạn, Hoài Tố. Đệ tử của Văn Cương có Đạo Ngạn, Chuẩn Nam. Đệ tử của Đạo Ngạn có Hành Siêu, Huyền Nghiễm.

Nhưng trên hệ thống truyền thừa, Luật Tông lấy Châu Tú làm Tổ thứ hai của Nam Sơn Luật tông. Hệ thống truyền thừa như sau:

Từ Châu Tú trở xuống, theo thứ tự nối tiếp như sau: Đạo Hằng, Tỉnh Cung, Huệ Chánh, Huyền Sướng, Nguyên Biểu, Thủ Ngôn, Nguyên Giải, Pháp Vinh, Xử Hằng, Trạch Ngộ, Duẫn Kham, Trạch Kỳ, Nguyên Chiếu, Trí Giao (hoặc lập Đạo Tiêu), Chuẩn Nhất, Pháp Chánh, Pháp Cửu Diệu Liên, Hành Cư, tất cả là 21 vị Tổ. Truyền xuống đến triều nhà Nguyên, Luật tông suy vi, sự truyền thừa không rõ.

Đây là hệ thống truyền thừa của Nam Tông Luật tông, đến sau Ngài Nguyên Giải, tức là vào thời kỳ Nam Tống. Từ Ngài Đạo Tuyên trở xuống, có hơn 60 nhà giải về luật của tông Nam Sơn, soạn thuật nhiều đến mấy ngàn quyển.

Trong đó, phái của Luật sư Nguyên Chiếu ở chùa Linh Chi tại Tiền Đường là hưng thịnh bậc nhất. Nhưng Tông Nam Sơn lúc truyền đến Ngài Linh Chi Nguyên Chiếu lại phân thành hai phái:

1.       Duẫn Kham ở chùa Chiêu Khánh tại Tiền Đường.

2.       Nguyên Chiếu ở chùa Linh Chi tại Thiền Đường.

Trong hai phái này, ảnh hưởng của phái Linh Chi rất lớn.

Sau khi nhà Nguyên làm chủ Trung Quốc, Phật giáo Trung Quốc đã trải qua đến cuối thời nhà Nguyên, Luật tông lại suy vi một cách đáng thương xót. Người thông Tứ Phần Luật, chỉ có Ngài Pháp Vân ở chùa Đại Phổ Khánh, nơi kinh thành mà thôi. Đồng thời, do vì Thiền tông thịnh hành một thời, từ đời Nam Tống trở về sau mà các tác phẩm của các nhà Luật học soạn thuật vào khoảng Đường, Tống đã không có người cầu học nên cũng mất mát gần hết.

Đến cuối triều nhà Minh, các vị Đại đức hoằng luật nối tiếp nhau xuất hiện, như Liên Trì, Ngẫu Ích, Hoằng Tán, Nguyên Hiền…đều có trứ thuật về luật học để lại hậu thế. Đồng thời với Đại sư Liên Trì, có Luật sư Như Hinh Cổ Tâm chuyên hoằng giới pháp. Đệ tử của Như Hinh có Tánh Tướng, Vĩnh Hải, Tịch Quang, Trùng Phương, Tánh Kỳ. Đệ tử nổi tiếng của Luật sư Tịch Quang (Tam muội) có Hương Tuyết và Kiến Nguyệt (Độc Thể).

Nhưng từ sau Hương Tuyết và Kiến Nguyệt, suốt triều nhà Thanh 210 năm, môn đình Luật tông, trừ các hình thức truyền giới, quỳ xuống, đứng dậy và tấn hướng ra, không còn có người hoằng luật chân chính. Thời gần đây, có hai vị Đại sư Hoằng Nhất và Từ Hàng hoằng luật mà thôi (Xin lưu ý: tấn hương là đốt sẹo trên đầu hoặc cánh tay để cúng dường khi thọ giới xong, là một tập tục tệ lậu của Phật giáo Trung Quốc thời gần đây, không có quan hệ gì đến việc thọ giới).

Thật ra, từ sau đời Nam Tống, các tác phẩm về luật đều bị mất mát. Cuối triều nhà Minh, các Đại đức tuy muốn hoằng luật, song sự nối tiếp không rực rỡ bằng ngày xưa, và những thành tựu cũng không tốt đẹp bằng đời Đường, Tống. Nhưng may mắn cho chúng ta, vì tác phẩm về luật học bị mất trước kia, ngày nay Nhật Bản hãy còn bảo tồn. Tôi hy vọng từ nay về sau sẽ có một không khí hoằng luật mới mẽ xuất hiện.

V.  NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA SỰ HOẰNG DƯƠNG GIỚI LUẬT

Hoằng dương giới luật, tuy chúng ta hy vọng nó sẽ xuất hiện được một không khí mới, nhưng nhìn trên lịch sử thì chẳng lạc quan lắm, vì theo sự ghi chép trong bộ Lịch sử Phật giáo Trung Quốc thì sự hoằng dương giới luật chiếm một tỷ lệ rất nhỏ.

Chúng ta thử kiểm thảo: Giới luật đã là căn bản của Phật pháp, vì sao Phật giáo Trung Quốc đối với giới luật không cảm thấy hứng thú? Nguyên lai, giới luật của Phật giáo cũng như pháp luật trong một quốc gia. Nếu như trong quốc gia bỏ hiệu dụng của pháp luật, thì xã hội của quốc gia ấy sẽ phát sinh ra sự khủng bố và đen tối không thể tưởng tượng. Phật giáo nếu không có sự câu thúc của giới luật, thì sự đoạ lạc của Phật tử và sự hư đốn của Tăng đoàn cũng là việc có thể đoán ra được. Phật giáo Trung Quốc tuy chẳng đúng như luật thực hành, nhưng vẫn kéo dài liên tục đến nay là vì trong các kinh luận của Phật giáo chỗ nào cũng có đề cập đến sự quan trọng của giới luật, như trong Luận Đại Trí Độ, Luận Du Già Sư Địa, kinh Niết Bàn, kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm, kinh Di Giáo v.v… Vì thế, Phật giáo Trung Quốc tuy chẳng tuân giữ nghiêm cẩn giới chế, nhưng lại không chống với nguyên tắc trọng yếu của giới luật, đây là điều đáng mừng. Song, cũng vì Phật giáo Trung Quốc chưa thiết thật thực hành đúng như luật, nên trạng thái Phật giáo Trung Quốc càng ngày càng đi xuống. Nguyên lai, tinh thần căn bản của Phật giáo là y pháp chẳng y người, chỉ cần y theo luật chế hành trì, Phật pháp mới tự có thể trải qua thời gian lâu dài mà vẫn thường mới mẻ. Nhưng Phật giáo Trung Quốc từ xưa đến nay thường thường y người mà chẳng y pháp, như xuất hiện được vài vị Đại Tổ sư để mọi người hành theo thì lấy Tổ sư làm trung tâm Phật giáo, kết đoàn xung quanh Tổ sư, Phật giáo nhân đó mà được hưng thịnh. Nếu trong mấy mươi năm hoặc mấy trăm năm không có một vị Tổ sư xuất hiện, thì Phật giáo cũng theo đó suy vi. Phật giáo vốn lấy Phật pháp làm trung tâm, mà Phật giáo Trung Quốc lại lấy Tổ sư làm trọng tâm. Vì thế, cục diện trên Phật giáo sử đều là thăng trầm thịnh suy bất định, không có cách nào cứu vãn cho nó được bình ổn lâu dài.

Nếu muốn cứu vãn cái khuyết điểm này, chúng ta chỉ có thể bắt đầu bằng sự kiến lập chế độ giới luật, nhưng hoàn cảnh và bối cảnh Phật giáo Trung Quốc đối với sự hoằng dương giới luật lại có rất nhiều khó khăn trong quá khứ như vậy, thì từ nay về sau cũng là như vậy. Nay phân tích như sau:

1.       Luật bổn quá nhiều, tổng hợp chẳng phải dễ

Giới luật truyền đến Trung Quốc có 4 luật, 5 luận; trong đó, nhân duyên chế giới và điều văn giới tướng của các bộ Quảng Luật đã sai biệt nhau biết bao nhiêu. Nhưng các bộ luận giải thích về luật, khi giải thích các điều văn, mỗi luận đều làm sáng tỏ tông nghĩa của bộ phái mình có nhiều điểm khác nhau, có luận yêu cầu rất nghiêm, có luận yêu cầu hơi nhẹ. Nếu như theo bộ đọc xem mà tự cho là phải, thì cũng không thể khẳng định rằng mình đã trải qua đến trình độ nào.

Do vì Luật sư Nam Sơn Đạo Tuyên không xem qua luật văn của Hữu Bộ (bản Tân dịch), nên quan điểm của Ngài có nhiều chỗ bất đồng của bộ luật này, Hữu Bộ Luật tuy xuất hiện sau, nhưng do Ngài Tam Tạng Nghĩa Tịnh lưu học ở Ấn Độ hơn 20 năm, khảo cứu khắp các luật chế Ấn Độ đương thời và trứ tác Ký Quy Truyện để thuyết minh. So với Ngài Nam Sơn thì quan điểm của Ngài Nghĩa Tịnh chính xác hơn. Nhưng nếu đem Hữu Bộ mà chỉ trích Nam Sơn thì cũng chưa nên. Lại như các Ngài Ngẫu Ích, Kiến Nguyệt ở cuối triều Minh đầu triều Thanh, vì các Ngài ấy chưa được học hết các tác phẩm về luật học của phái Nam Sơn trứ tác vào thời Đường, Tống, nên tuy các ngài theo tông chỉ Nam Sơn, nhưng vẫn chưa hoàn toàn hợp với quan điểm của Nam Sơn. Người ngày nay như muốn tu chỉnh và hoằng dương giới luật trước cần phải xung phá cửa ải khó khăn này.

2.  Giới tướng phiền phức, chẳng dễ gì ghi nhớ rõ hết

Mọi người đều biết trong Phật pháp danh tướng của Tông Duy Thức quá nhiều, rất khó mỗi mỗi đều ghi nhớ rõ ràng, mà chẳng biết Luật tông cũng khó khăn như thế. Mọi người chỉ biết giới luật, tối thiểu là 5 điều của ngũ giới, tối đa là 348 điều của Tỳ kheo ni giới. Song, đây không chỉ là điều văn mà thôi. Một người nếu như chỉ học thuộc lòng điều văn của Hiến pháp thì chẳng thành chuyên gia Hiến pháp học được.  Bởi vì gần như trong mỗi điều giới tướng, phần nhiều đều có phân biệt khai, giá, trì, phạm, mỗi điều giới đều có đẳng cấp khinh, trọng. Đồng phạm một điều giới do động cơ, phương tiện, kết quả v.v… chẳng đồng, thì phạm tội khinh, trọng và phương thức sám hối cũng chẳng đồng. Điều văn của giới luật cố nhiên là giới, vả dù không có ghi trong điều văn, nhưng điều gì làm trái với nguyên tắc Phật pháp cũng đều coi là phạm giới. Phạm giới là gì? Phải có biện pháp nào? Đều phải phân biệt rõ ràng như chỉ vật trong lòng bàn tay mới được gọi là thông hiểu giới luật. Hơn nữa, một Tỳ kheo không những chỉ biết về phạm giới tướng khinh, trọng và phương thức sám hối, là còn cần phải thông hiểu tất cả giới luật Đại thừa, Tiểu thừa mới được xem là hiểu rõ giới luật. Vì thế, nghiên cứu giới luật cần phải trước tiên có tâm nhẫn nại và khắc khổ, từ trong danh mục giới tướng khô khan bồi dưỡng ra tinh thần trì giới và bí nguyện hoằng giới.

3.       Học giới, hoằng giới cần phải trì giới

Người học giới, hoằng giới tuy chẳng cần mọi việc đều hành trì đúng như luật, nhưng tối thiểu cũng phải là tín đồ trung thực của giới luật. Người ấy tuy chưa chắc trì luật cẩn nghiêm, nhưng ít ra cũng là người nối theo luật mà thực hành, bằng không thì sự nghiệp hoằng luật của người ấy cũng khó thâu đạt được hiệu quả lý tưởng.

Học thiền có thể chẳng câu chấp tiểu tiết, học luật mọi việc đều phải cẩn thận. Pháp sư học giáo giảng kinh có thể lên đại toà thuyết pháp, có thể thâu nhiều đồ chúng, có thể được cả danh lợi. Luật sư trì giới hoằng luật không có Tăng đoàn đại quy mô, giảng giới chẳng cầu lên đại toà hoặc có đại tòng lâm. Người học giới, trì giới, tuyệt đối chẳng dám lạm thâu đồ chúng, bằng không tức là phạm giới. Do đó nếu muốn lập chí hoằng giới, trước tiên cần phải chuẩn bị cam chịu tịch mặc. Đương nhiên, nếu hoằng giới được thành công, lúc ảnh hưởng lan khắp mọi người thì những vấn đề này cũng chẳng thành vấn đề. Nhưng bản thân làm một người hoằng giới, sinh hoạt của người ấy chắc chắn phải là một thầy Tỳ kheo khắc khổ, vật dụng nuôi thân chẳng dám quá tốt, bằng không sẽ thành phạm giới. Vì thế, người muốn phát tâm hoằng giới trước tiên phải có tinh thần chẳng sợ khắc khổ.

4.       Hoàn cảnh Phật giáo Trung Quốc chẳng quý chuộng luật chế

Nhân vì Phật giáo Trung Quốc, nhất là Phật giáo Trung Quốc từ đời Nam Tống đến nay vốn đánh mất cái tập quán quý chuộng giới luật. Vì thế, chúng ta đề xướng hoằng dương giới luật nhưng gặp phải hoàn cảnh chẳng quý chuộng luật chế này, đó là sự chướng ngại lớn nhất của việc hoằng dương giới luật. Đa số người chẳng quý chuộng luật chế, cũng ghét luôn cả người quý chuộng luật chế, vì họ sợ người đem lý do của luật chế ra để câu thúc hoặc phê bình đả kích họ, cho nên họ không được an tâm. Tôi đã từng nghe người nói: Đại sư Hoằng Nhất hoằng luật, rất nhiều nơi chẳng hoan nghinh Ngài, thậm chí có người coi Ngài như quái vật. Kỳ thật, họ đều là những quái vật mà chẳng tự biết, lại đem cái chẳng phải quái vật cho là quái vật. Thử hỏi Tỳ kheo xuất gia mà chẳng sinh hoạt theo hạnh Tỳ kheo thì chẳng cho đó là quái vật, trái lại cho thầy Tỳ kheo sinh hoạt đúng hạnh Tỳ kheo là quái vật, chẳng phải kỳ quái lắm sao? Nhưng dù nói thế nào, ở trong hoàn cảnh chẳng quý chuộng luật chế này, đã có sự tự do hoằng dương giới luật thì cũng có sự tự do phản đối việc hoằng dương giới luật. Đã chẳng tiện phỉ báng công khai, lại chẳng thể thủ tiêu thì chẳng cho người khác tự do hợp tác. Thế nên cuối triều nhà Minh, ngài Ngẫu Ích hoằng giới mấy lần giảng, mấy lần đình, người nghe giảng tối đa không hơn mười mấy người. Thời gian gần đây, ngài Hoằng Nhất hoằng giới, ban đầu vài lần chẳng như ý nguyện, về sau lấy: “Chẳng lập danh mục, chẳng thâu kinh phí, chẳng hợp nhiều chúng, chẳng định địa chỉ” làm phương án hoằng luật.

5.       Luật văn chế định mà thời đại biến đổi

Điều văn của giới luật là chết, còn sự diễn biến của xã hội là sống. Muốn đem những điều văn chết cứng đặt lên đầu mỗi đệ tử Phật của mỗi thời đại một cách sống động, thật là một sự kiện khó khăn, cũng là một việc chẳng hợp lý. Nhưng, sau khi Phật nhập diệt, Tôn giả Ca Diếp đã đề xuất ra nguyên tắc thế này: “Điều Phật đã chế chẳng được phép bỏ, điều Phật chưa chế chẳng được chế thêm”. Do đó, những vị Đại đức của nhiều đời đều chẳng dám làm cho giới luật có được sự linh hoạt thích ứng, mà vẫn đem cái quan niệm của người Ấn Độ đến phạm vi của người Trung Quốc, đem cái phạm vi cùng quan niệm của thời đại Tuỳ, Đường đến phạm vi của người hiện đại thì đâu nên trách giới luật mà bỏ nó qua một bên, và cũng đâu nên chẳng mong muốn làm cho giới luật thích ứng với trào lưu thời đại. Vì thế, có rất nhiều người cho rằng trì giới là hành vi thủ lậu. Thật ra, nếu như cứ vâng theo toàn bộ điều văn để tuân hành, thì thật là có chút lãng phí, bởi vì trong Ngũ Phần Luật quyển 22 có nói: “Phật dạy: Tuy là điều giới ta chế, nhưng phương khác chẳng cho là thanh tịnh đều chẳng nên dùng. Tuy chẳng phải điều ta chế, nhưng phương khác cần phải làm thì chẳng được chẳng làm”. Đủ thấy giới luật đều không cố định, chỉ cần chẳng trái với nguyên tắc của luật chế; tức là có thể tuỳ theo địa phương cùng trào lưu của thời đại mà ứng dụng. Còn việc ứng dụng như thế nào, thì phải cần phải học tập nhuần nhuyễn giới luật rồi sau mới có thể linh hoạt viên dung, mới không trái với nguyên tắc luật chế. Thời đại có mới, tinh thần của luật chế là trải qua thời gian dài lâu nhưng vẫn thường mới mẻ, chẳng nên nệ cổ mà chẳng canh tân, cũng chẳng nên vì mắc nghẹn mà bỏ ăn, nhưng đây cũng là một chướng ngại ngầm của việc hoằng dương giới luật. Năm điểm kể trên là nhân tố chủ yếu khiến cho giới luật chẳng được hoằng dương. Nhưng chúng ta chẳng nên vì sự khó khăn chướng ngại mà đình đốn nhiệm vụ hoằng dương giới luật. Chúng ta phải tìm ra nguyên nhân của sự khó khăn nằm tại chỗ nào rồi tìm cách giải quyết, đáng khắc phục thì khắc phục, nên khai thông thì khai thông. Tôi ước mong mọi người cùng khích lệ nhau ra sức hoằng dương giới luật.

   VI.  BỒI DƯỠNG PHONG TRÀO HỌC LUẬT

Muốn cho Phật giáo Trung Quốc từ nay về sau có tính chất ổn định, có hệ thống tổ chức và có sức đoàn kết, ắt hẳn cần phải phát huy sự tiến triển của luật chế. Muốn cho Tăng đoàn của Trung Quốc có tính thống nhất, có quyền chế tài, có sức hoạt động, chúng ta cần phải tiến hành sự giáo dục của luật chế. Muốn các Phật giáo đồ từng từng lớp lớp làm nhân cho nhau, tiết chế lẫn nhau, bảo trì thân tâm thanh tịnh, đạt đến cảnh ly dục, ắt cần phải giáo dục tất cả mọi người thọ giới, học giới và trì giới.

Công tác hoằng dương giới luật xây dựng nền tảng trên sự thọ giới, học giới và thọ giới của mọi người. Trước chẳng thọ giới thì không thể học giới. Nếu chẳng học giới, trì giới thì không có giới để hoằng. Vì thế, Phật quy định tân Tỳ kheo xuất gia năm hạ đầu tiên phải y chỉ học luật. Nếu chẳng hiểu biết về trì, phạm, khinh, trọng của giới luật thì chẳng được lìa thầy và cũng chẳng được làm thầy người khác.

Trước mắt muốn học luật, khó khăn hãy còn rất nhiều, đó là không có đạo tràng lý tưởng cho người học tập và cũng không có đầy đủ sách luật cho người đọc. Có nhiều bộ luật sao, Luật sớ trong bộ Tục Tạng chữ VẠN, nhưng vì trong nước không có in Tục Tạng chữ VẠN cũng chưa có in riêng các sách luật để lưu thông, cho nên muốn mượn xem chẳng phải dễ.

Theo Đại sư Hoằng Nhất, nếu người nào đem bộ Tứ Phần Tỳ kheo Giới Bổn Tướng Biểu Ký của chính Ngài biên tập và bộ Tứ Phần Luật Hàm Chú Giới Bổn cùng bộ Tứ Phần San Bổ Tuỳ Cơ Yết Ma của Luật sư Đạo Tuyên, nghiên cứu hoàn tất ba bộ này thì có thể biết đạ cương về luật học, nhưng đó chỉ là Tứ Phần Luật mà thôi, còn các bộ khác vẫn không biết.

Do đó, tôi cảm thấy chúng ta còn thiếu một bộ sách nhập môn về giới luật. Một bộ sách nhập môn phải có tính phổ thông, đồng thời cũng phải có tính thời đại và tính thực dụng. Đó là động cơ tôi viết sách này. Đáng tiếc tôi tài hèn sức mọn, hơn nữa, tôi cũng chẳng phải là người đem tinh thần giới luật tử trong sinh hoạt của tôi biểu đạt toàn bộ, những lời viết ra đây đều là không biết lượng sức mình, hà huống sách luật tôi được đọc cũng rất là hữu hạn. Vì thế sách này tuy mang tên GIỚI LUẬT CƯƠNG YẾU, thật ra chỉ là một điểm tâm đắc của sự học tập giới luật trong hơn hai mươi năm của tôi mà thôi.

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT – LỜI TỰA

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT

Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích nữ Tuệ Đăng Dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

LỜI TỰA

Tôi được xuất gia lại, phải trãi qua rất nhiều khó khăn mới đạt thành mục đích. Nay tôi xin chân thành tri ân vị ân sư hiện tại thế phát cho tôi là Đông Công Lão Nhân, Ngài đã dốc hết tâm lực giúp đỡ và thành tựu cho tôi, nên trong suốt 10 năm tòng quân, niệm niệm tôi chẳng hề quên khôi phục thân phận xuất gia. Tôi cũng xin tỏ lòng cảm kích Nam Đình Trưởng lão, Ngài từ thỉ chí chung yêu thương ủng hộ và khích lệ tôi.

Chính vì cảm thấy sâu xa nhân duyên xuất gia này là đáng quý, mà tôi lập chí muốn làm một Phật tử thanh tịnh ở địa vị thấp nhất. Muốn được thanh tịnh, trừ việc học giới trì giới ra, không còn phương pháp nào tốt hơn. Vì giới luật là phương thuốc phòng ngừa sự hư đốn duy nhất trong sinh hoạt của người Phật tử. Đây là động cơ khiến tôi học tập giới luật.

Quyển sách này được hoàn thành, tôi xin cảm tạ Trúc Mai Lão Nhân hiện ở Nam Dương. Ngài đã khích lệ tôi rất nhiều. Lúc tôi ở Nam Dương, sau khi cho đăng phần tự luận của sách này trên báo Vô Tận Đăng, tôi nhận được 10 Mỹ kim do Ngài gửi đến và nói hãy ấn hành phần ấy để lưu thông. Tôi còn tiếp nhận được lời Ngài hứa, khi tôi viết xong bộ Giới Luật Học này, nếu không có năng lực xuất bản, Ngài giúp tôi phương tiện để ấn hành.

Đây là một sự khích lệ rất quý báu, từ đó tôi một mạch nghiên cứu và viết quyển sách này. Đồng thời cũng là sự thí nghiệm của tôi, bởi vì giới luật là một môn học vốn khô khan mà lại phiền toái. Đến nỗi từ cận thế đến nay trở thành môn học của Phật giáo không được mọi người để ý đến. Dẫu có người nghiên cứu cũng không thoát khỏi cái không khí cổ xưa, phần nhiều theo lề lối cũ khiến cho người ta khó hiểu, thậm chí phê bình lệch lạc.

Nhân đây, tôi muốn làm thử sống lại giới luật bằng phương pháp nghiên cứu mới, không câu nệ theo xưa, dùng lối văn giản dị, đem nội dung của giới luật, phối hợp với quan niệm của bao thời đại trước bằng cách tỷ giảo thông thường cho mọi người dễ hiểu.

Đương nhiên, mục đích của tôi khi đem các vấn đề chủ yếu trong giới luật học ra để giới thiệu và khai thông, tuy là cần sự phổ thông, song vẫn không làm cho người nhàm chán. Do đó, trong quyển sách này, khi trưng dẫn các tư liệu trọng yếu của các bộ luật và chú sớ, đều có ghi rõ xuất xứ để tiện cho độc giả nghiên cứu tham khảo. Chỉ e người đọc không hiểu nguyên văn và những danh từ chuyên môn dẫn trong sách, nên chúng tôi có mở dấu ngoặc đơn để ghi chú.

Vì yêu cầu của thực tế, và vì giới hạn của các thiên trong quyển sách, nên quyển sách này trừ các thiên nói về Tam Quy, Ngũ giới, Bát giới, Thập giới rất là tỉ mỉ, còn Cụ túc gới và Bồ tát giới chỉ giới thiệu cương yếu, do đó mà tên sách này có hai chữ cương yếu. Tuy nhiên như vậy, Cụ túc giới và Bồ tát giới cũng chiếm hơn hai phần năm nội dung quyển sách này, đối với giới luật, người đọc cũng có một sự hiểu biết tương đối rõ ràng.

Tính chất của sách này, ngoài sự phổ thông nghiên cứu, còn là thực dụng nữa. Nội dung quyển sách này, trừ Thức xoa ma ni giới và Cụ túc giới ra, các giới đều được giới thiệu và ghi rõ về nghi thức thọ giới với tính cách thiết thực, đơn giản, rõ ràng, rất thích ứng với nghi thức thọ giới phổ thông; cùng nguồn gốc tính chất ý nghĩa tác dụng của các thứ giới luật, cho đến vì sao cần phải thọ giới? Thọ giới như thế nào? Sau khi thọ giới phải làm sao? Do đó, đối tượng của sách này là các Phật tử đã thọ các giới pháp và cũng là những độc giả đang chuẩn bị thọ các giới pháp.

Có thể nói, trên đại thể thì sách này chịu ảnh hưởng nhiều của hai vị Đại sư là Ngẫu Ích và Hoằng Nhất, song không hoàn toàn theo đường lối của các Ngài, cho đến cũng không hoàn toàn đứng trên lập trường tông Nam Sơn (của Ngài Đạo Tuyên). Bởi vì nhìn từ trên bản chất của giới luật, thì giới luật thuộc về của chung Phật giáo, giới luật là phép tắc cho toàn thể Phật tử cùng nhau tuân giữ, chứ không phải chỉ dành riêng cho một tông phái nào.

Hẳn nhiên, trong bộ sách này có quan điểm cá nhân của tôi, song vấn đề tôi nói, tôi đều cố gắng trình bày một cách khách quan những quan điểm ấy theo yêu cầu của người đọc, và tôi dám khẳng định là những điều trình bày trong bộ sách này đều có căn cứ. Nhưng do trình độ học vấn của tôi thiển cận, nên sự cống hiến cho sách này có hạn, nếu như có một chút giá trị, là quy công về ân đức của Tam bảo và sự khích lệ của Thầy, bạn. Như có hậu quả không tốt, đều là lỗi của tác giả. Kính mong được sự chỉ dạy, tôi vô cùng cảm kích.

Viết tại Quang Phòng, Chùa Triêu Nguyên,

Ngày 25 tháng giêng (PL. 2509)

HT. THÁNH NGHIÊM


LUẬT TẠNG (the Vinaya Pitaka)

links download below