Giới thiệu Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam

Giới thiệu Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam

MỤC LỤC

1. Lịch sử phát triển

2. Các danh tăng và cư sĩ tiền bối

3. Nghi thức và sinh hoạt

4. Ðịa chỉ và Hình ảnh sinh hoạt các chùa Phật giáo Nguyên thủy

Nguồn budsas.110mb

Sưu tầm và trình bày Thanh Tịnh Lưu Ly

Danh sách và địa chỉ các chùa PG Nguyên Thủy tại hải ngoại

Danh sách và địa chỉ các chùa PG Nguyên Thủy
tại hải ngoại

I- Ðịa chỉ chùa PGNT tại Hoa Kỳ

Chùa Pháp Vân

850 W. Phillips Blvd.
Pomona. CA 91766
USA
Phone: (909) 622-0814
Trụ trì: Hòa thượng Chơn Trí

Như Lai Thiền Viện

1215 Lucretia Ave.
San Jose. CA 95122
USA
Phone: (408) 294-4536

Thích Ca Thiền Viện

15950 Winters Lane
Riverside. CA 92504
USA
Phone: (909) 780-5249
Trụ trì: Hòa thượng Kim Triệu

Chùa Pháp Luân

13913 S. Post Oak Rd
Houston. TX 77045
USA
Phone: (713) 433-4364; 413-1672
Trụ trì: Tỳ khưu Giác Ðẳng

Chùa Ðạo Quang

3536 N. Garland Ave.
Garland. TX 75040
USA
Phone: (972) 414-7345
Trụ trì: Tỳ khưu Tịnh Ðức

Chùa Bửu Môn

2701 Procter St
Port Arthur. TX 77640
USA
Phone: (409) 982-9319; 985-3749
Trụ trì: Tỳ khưu Huyền Việt

Phù Vân Am

RD 2 Box 437 A
Newton. TX 75966
USA
Phone: (409) 384-2860
Trụ trì: Tỳ khưu Tịnh Ðức

Chùa Hương Ðạo

4717 E. Rosedale St.
Fort Worth. TX 76105
USA
Phone: (817) 531-7144
Trụ trì: Tỳ khưu Bửu Ðức

Chùa Liên Hoa

2014 Rose St
Irving. TX 75061
USA
Phone: (214) 445-1646
Trụ trì: Hòa thượng Pháp Nhẫn

Chùa Vạn Phuớc

3123 Manchester Road
Wichita Falls. TX 76305
USA
Phone: (817) 761-3697

Chùa Kỳ Viên

1400 Madison St. NW.
Washington DC. 20011
USA
Phone: (202) 882-6054
Trụ trì: Hòa thượng Kim Triệu

Chùa Trúc Lâm

7020 N. Western Avenue
Chicago. IL 60645
USA
Phone: (773) 274 2723
Trụ trì: Tỳ khưu Viên Hạnh Sanvaro

Chùa Phật Pháp

1770 62nd Avenue N.
St. Petersburg, FL 33702-7250
USA
Phone: (727) 520-9209
Trụ trì: Tỳ khưu Trí Tịnh

Chùa Tam Bảo

4766 N. Rockspring Rd.
Apopka. FL 32712
USA
Phone: (407) 886-7092
Trụ trì: Tỳ khưu Viên Hạnh Sanvaro

Pháp Đăng Thiền viện

16805 Jetson Dr.
Spring Hill. FL 34610.
USA
Trụ trì: Tỳ khưu Trí Dũng Virapanno

Chùa Tam Bảo

4040 W. Brookstown Dr.
Baton Rouge. LA 70805
USA
Phone: (504) 393-1944

 II- Ðịa chỉ chùa PGNT tại các quốc gia khác

Thiền Viện Bát Nhã

3401 Belanger Est.
Montreal
Quebec H1X – 1A5
CANADA
Phone: (514) 721-7149

7494 Levesque Est Blvd.

Duverney Laval
Quebec H7A – 1R8
CANADA
Phone: (450) 665-0622
Trụ trì: Tỳ khưu Khánh Hỷ

Chùa Kỳ Viên

52 Rue Pierre Sémard
93150 Le Blanc Mesnil
FRANCE
Phone: (33-1) 48.65.57.68
Trụ Trì: Tỳ khưu Gnanissara
Tổng Thư Ký: Mr Nguon Trương
Phone: (33-1) 48.99.08.17

Chùa Phật Bảo

(Pagode Buddharatanarama)
3 Rue De Broca
91600 Savigny Sur Orges
FRANCE
Phone: (33-1) 69.96.49.34; 69.44.18.82
Trụ Trì: Tỳ khưu Đức Minh

Thiền Đường Sakya Muni

33 Emile Gemton Montbeon
89340 Saint Agnan
FRANCE
Phone: (33-3) 86.96.19.44
Trụ Trì: Sư cô Diệu Tịnh
Phụ Trách: Mme Ly Nareth
Phone: (33-1) 69.53.09.97

Phước Tuệ Tịnh Xá

10 Chemin Du Bois Cochard
93370 Montfermeil
FRANCE
Phone: (33-1) 43.88.16.01
Trụ Trì: Tỳ khưu Giác Tuệ

Chơn Minh Tinh Xá

Rosenheim Strasse 9, St.
Gallen 9008.
SWITZERLAND
Phone: 071-25-95-69
Trụ trì: Sư cô Diệu Duyên

-ooOoo- 

Danh sách và địa chỉ các chùa PG Nguyên Thủy tại Việt Nam

Danh sách và địa chỉ các chùa PG Nguyên Thủy
tại Việt Nam

I- Ðịa chỉ chùa Nam Tông tại tp Hồ Chí Minh

QUẬN 2

1) CHÙA NGUYÊN THỦY
33-A đường 10, Khu Phố 1
Phường Cát Lái, Q. 2,
TP. HCM
ÐT: 08. 742 0214; 0918. 325 769
Trụ trì: Tỳ khưu PHÁP CHẤT

QUẬN 3

2) CHÙA KỲ VIÊN
610 Nguyễn Ðình Chiểu, Phường 3, Q. 3,
TP. HCM
ÐT: 08. 832 5522; 830 0845; 830 5135; 830 0846; 0903. 870 370
Trụ trì: Tỳ khưu TĂNG ÐỊNH

3) CHÙA CHANDARAMSYA (Khmer)
164/235 Trần Quốc Thảo, Phường 7, Q. 3,
TP. HCM
ÐT: 08. 843 5359
Trụ trì: Tỳ khưu DANH LUNG (Ekasuvanna)

QUẬN 6

4) CHÙA TRÚC LÂM (Quận 6)
570/10 Hùng Vương, Phường 12, Q. 6,
TP. HCM
ÐT: 08. 876 3324
Trụ trì: Tỳ khưu PHÚC HỶ

5) CHÙA SIÊU LÝ (Phú Định)
241-B/44/37 Nguyễn Văn Luông, Phường 11, Q. 6,
TP. HCM
ÐT: 08. 876 1635 – 08. 876 7570 – 08. 876 7614 – 0903. 856 825
Trụ trì: Tỳ khưu PHÁP NHIÊN

QUẬN 7

6) CHÙA BỒ ÐỀ (Tân Quy)
6B/1 Trần Xuân Soạn, Phường Tân Hưng, Q. 7,
TP. HCM
ÐT:
Trụ trì: Tỳ khưu PHƯỚC ĐỨC

QUẬN 8

7) CHÙA GIÁC QUANG
47 Lương Văn Can, Phường 15, Q. 8,
TP. HCM
ÐT: 08. 8 549.247
Trụ trì: Tỳ khưu THIỆN ÐẠT

QUẬN 9

8) XÁ LỢI PHẬT ÐÀI
246/5 Vĩnh Thuận, Phường Long Bình, Q. 9,
TP. HCM
ÐT: 08. 8870 211 – 08. 8870 212 – 090. 604 882
Trụ trì: Tỳ khưu THIỆN NHÂN

9) CHÙA KIỀU ÐÀM
Ấp Cây Dầu, Phường Tân Phú, Q. 9,
TP. HCM
ÐT: 08. 8961 696
Trụ trì: Tỳ khưu NHẬT THIỆN

10) CHÙA BỬU LONG
81/1 Hương lộ 33, Ấp Thái Bình, Phường Long Bình, Q. 9,
TP. HCM
ÐT: 08. 889 7653
Trụ trì: Tỳ khưu VIÊN MINH

Q. BÌNH THẠNH

12) CHÙA PHÁP QUANG
414/17 Nơ Trang Long, Phường 13, Q. Bình Thạnh,
TP. HCM
ÐT: 08. 8432 913
Trụ trì: Tỳ khưu MINH GIÁC

Q. GÒ VẤP

13) CHÙA PHÁP LUÂN
19/1C Nguyễn Thái Sơn, Q. Gò Vấp,
TP. HCM
ÐT: 08. 9850 748 – 08. 8956 514
Trụ trì: Tỳ khưu PHƯỚC HẢI

14) CHÙA PHỔ MINH
2 Thiên Hộ Dương, Phường 1, Q. Gò Vấp,
TP. HCM
ÐT: 08. 8945 049 – 0903. 951 075
Trụ trì: Tỳ khưu THIỆN TÂM

15) CHÙA TỪ QUANG
63 Trần Bình Trọng, Phường 1, Q. Gò Vấp,
TP. HCM
ÐT: 08. 8931 499
Trụ trì: 

16) Chùa THANH MINH
90 Trần Huy Liệu,
Phường 15, Quận Phú Nhuận,
Sài Gòn, Việt Nam
ĐT: 08. 8457 792
Trụ trì: Tỳ khưu THANH MINH

Q. TÂN BÌNH

17) CHÙA DIỆU QUANG
100 Trần Văn Quang. Phường 10, Q. Tân Bình,
TP. HCM
ĐT: 08. 9742 304
Trụ trì: Tu nữ DIỆU TÂM (Sư cô HIỀN)

18) CHÙA PHẬT BẢO
57 Lạc Long Quân, Phường 10, Q. Tân Bình,
TP. HCM
ÐT: 08. 8640 285 – 0913. 977 727
Trụ trì: Tỳ khưu CHÁNH NIỆM

19) CHÙA BỬU THẮNG
126/331 Ðường Cao Vân, Phường 18, Q. Tân Bình,
TP. HCM
ÐT:
Trụ trì: Tỳ khưu HỘ CHƠN

20) CHÙA BODHIVAMSA POTHI VONG (Khmer)
1985B Hồng Lạc, Phường 10, Q. Tân Bình,
TP. HCM
ÐT: 08. 9710 131
Trụ trì: Tỳ khưu TĂNG NGỌC AN (Pannasaro)

Q. THỦ ÐỨC

21) CHÙA BỬU QUANG
171/10 QL. 1A, Tổ 8, Khu phố 3,
Ấp Gò Dưa, Phường Bình Chiểu, Q. Thủ Ðức,
TP. HCM
ÐT: 08. 3729 0248; 0903. 870 370
Quản tự: Tỳ khưu THIỆN MINH

22) CHÙA BỬU HẠNH (Tịnh thất Cây Mít Nài)
Tổ 8, Khu phố 3, Ấp Gò Dưa, Phường Bình Chiểu,
Q. Thủ Ðức, TP. HCM

23) CHÙA BÁT CHÁNH ĐẠO
16/12A Đường số 12, Khu phố 4,
Phường Tam Bình, Q. Thủ Đức
Trụ trì: Tỳ khưu MINH TẤN

Huyện BÌNH CHÁNH

24) CHÙA NAM TÔNG
220/110/166/1, Thị trấn An Lạc, Huyện Bình Chánh,
TP. HCM
ÐT: 08. 8754 246 – 08. 8858 099
Trụ trì: Tỳ khưu THIỆN HẠNH

25) CHÙA TĂNG BẢO
D3/1D Ấp 4, Xã Vĩnh Lộc A, Huyện Bình Chánh,
TP. HCM
ÐT: 08. 7650 521 – 0908. 432 930, 01688 925 246
Trụ trì: Tỳ khưu BỬU MINH

Huyện HÓC MÔN

26) TỊNH XÁ TRÚC LÂM (Hóc Môn)
18/1 Ấp Xuân Thới Ðông, Xã Tân Xuân, Huyện Hóc Môn,
TP. HCM
ÐT: 08. 710 8863; 883 0110
Trụ trì: Tỳ khưu TRÍ MINH

-ooOoo-

Ðịa chỉ chùa Nam Tông tại các nơi khác

AN GIANG

CHÙA SÔM XÂY
Ấp Phú Thọ, Xã Ô Lâm,
Huyện Tri Tôn, Tỉnh An Giang.
ĐT: 076 272135
Trụ trì: Tk. Châu Xiếp

BÀ RỊA – VŨNG TÀU

1) CHÙA THIỀN LÂM (THÍCH CA PHẬT ÐÀI)
4/7 Trần Phú, Phường 5, TP. Vũng Tàu,
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
ÐT: 064. 834 418
Trụ trì: Hòa thượng KIM MINH

2) CHÙA BỒ ÐỀ (Vũng Tàu)
25 Vi Ba, Phường 1, TP. Vũng Tàu,
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
ÐT: 064 510450 – 09003. 645 916
Trụ trì: Tỳ khưu CHÁNH MINH

3) TAM BẢO THIỀN ÐƯỜNG
72 Vi Ba, Phường 1, TP. Vũng Tàu,
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
ÐT:
Trụ trì: Tỳ khưu THẮNG PHƯỚC

4) CHÙA PHƯỚC HẢI (Vũng Tàu)
38 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phường 2, TP. Vũng Tàu,
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
ÐT: 064. 854 664
Trụ trì: Tỳ khưu MINH HẠNH

5) CHÙA HỘ PHÁP
610/2A Trần Phú, Phường 5, TP. Vũng Tàu,
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
ÐT: 064. 832 575 – 091. 700 688
Trụ trì: Tỳ khưu GIÁC TRÍ

6) CHÙA NAM SƠN (Giri Dakkhinasattharama)
33/18 Tổ 29, Khóm Bình Sơn,
Đường Trần Xuân Độ, Phường 6,
TP. Vũng Tàu, Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
ĐT: 064. 562 355
Trụ trì: Tỳ khưu Quách Thành Sattha (Cittapanno)

7) THIỀN ÐƯỜNG PHẬT QUANG
KP 5, Phường Phước Hưng, Thị xã Bà Rịa,
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
ÐT: 064. 827 138 – 091. 700 688
Trụ trì: Tỳ khưu GIÁC TRÍ

8) THIỀN VIỆN VIÊN KHÔNG
Khu 2, Ấp 4, Xã Tóc Tiên, Huyện Tân Thành,
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
ÐT: 064 948 533 – 0913. 886 778; 0903 058 315
Trụ trì: Tỳ khưu HỘ PHÁP

BẾN TRE

Chùa Tâm Thành
Xã Quới Thạnh, Huyện Châu Thành
Tỉnh Bến Tre
ĐT:
075. 623 200 – DĐ : 0917 850 526

BÌNH DƯƠNG

1) CHÙA THANH LONG
42/23 Ấp Tân Lập, Phường Phú Thọ, Thị xã Thủ Dầu Một,
Tỉnh Bình Dương
ÐT:
Trụ trì:

2) TỊNH THẤT PHƯỚC MINH
Tỉnh Bình Dương
Trụ trì:

3) CHÙA KIM QUANG
Tỉnh Bình Dương
Trụ trì: Tỳ khưu TUỆ PHÁP

BÌNH ÐỊNH

CHÙA PHƯỚC QUANG
Thôn Vạn Quang, Xã Phước Quang, Huyện Tuy Phước,
Tỉnh Bình Ðịnh
ÐT: 0651. 616 007
Trụ trì: Tỳ khưu ĐỨC TÂM

BÌNH PHƯỚC

1) CHÙA TỨ PHƯƠNG TĂNG
Xã Phước An, Ấp Xa Trạch, Huyện Bình Long,
Tỉnh Bình Phước
ÐT:
Trụ trì: Tỳ khưu THIỆN HÒA

2) TAM BẢO THIỀN ÐƯỜNG
Trụ Thơ, KP Phú Bình
Thị Trấn An Lộc, Huyện Bình Long,
Tỉnh Bình Phước
ÐT: 0651. 666 653 – 091. 722 183
Trụ trì: Tỳ khưu THIỆN TRÍ

BÌNH THUẬN

CHÙA BÌNH LONG
Phường Đức Long, TP. Phan Thiết
Tỉnh Bình Thuận
ĐT: 062. 816 673, 0908. 382 223
Trụ trì: Tỳ khưu TRÍ PHƯỚC

CẦN THƠ

TỊNH THẤT SIÊU LÝ (Thốt Nốt)
Huyện Thốt Nốt, TP. Cần Thơ
ÐT: 071. 644 376
Trụ trì: Tu nữ NGỌC DUYÊN

 ÐÀ NẴNG

CHÙA TAM BẢO
323 Phan Chu Trinh, Phường Bình Thành,
TP. Ðà Nẵng.
ÐT: 051. 1879 629
Trụ trì: Tỳ khưu PHÁP CAO

ĐAK LAK

Chùa PHỔ QUANG
Thôn 1, Xã Quãng Tiến, Huyện Cưm-gar,
Tỉnh Đaklak.
ĐT: 0935 – 330 199
Trụ trì: Tỳ khưu TÂM ĐỊNH

ÐỒNG NAI

1) CHÙA BỬU ÐỨC
C-61-A, Phường Bửu Long, TP. Biên Hòa,
Tỉnh Ðồng Nai
ÐT: 061. 952 320 – 0913. 684 564
Trụ trì: Tỳ khưu GIÁC CHÁNH

2) CHÙA THIỀN QUANG 1
Ấp 8, Xã Bình Sơn, Huyện Long Thành,
Tỉnh Ðồng Nai
ÐT: 061. 845 027
Trụ trì: Tỳ khưu THIỆN PHÁP

3) CHÙA THIỀN QUANG 2
219 Ấp 3, Xã An Phước, Huyện Long Thành,
Tỉnh Ðồng Nai
ÐT: 061. 845 366 – 0918. 902 099
Trụ trì: Tỳ khưu CHÍ TÂM

4) CHÙA CỒ ÐÀM
120 Ấp 8, Xã An Phước, Huyện Long Thành,
Tỉnh Ðồng Nai
ÐT: 0903. 856 857 – 0903. 608 823
Trụ trì: Tỳ khưu CHƠN THIỆN

5) CHÙA NGỌC ÐẠT
Ấp Ðông, Xã Phước Tân, Huyện Long Thành,
Tỉnh Ðồng Nai
ÐT: 061. 831 630
Trụ trì: Tỳ khưu TRÍ ÐỨC

6) CHÙA PHƯỚC HỘ
Tổ 21, Ấp Tân Cang, Xã Phước Tân, Huyện Long Thành,
Tỉnh Ðồng Nai
ÐT: 0918. 342 115
Trụ trì: Tỳ khưu MINH HUỆ

7) THIỀN VIỆN PHƯỚC SƠN
Ðồi Lá Giang, 368 Suối Tân Cang,
Ấp Tân Cang, Xã Phước Tân, Huyện Long Thành,
Tỉnh Ðồng Nai
ÐT: 061. 967 234 – 061. 967 237 – 0913. 940 683 – 0913. 629 860
Trụ trì: Tỳ khưu BỬU CHÁNH

8) CHÙA Y SƠN
Ấp Tân Cang, Xã Phước Tân, Huyện Long Thành,
Tỉnh Ðồng Nai
ÐT:
Trụ trì: Tỳ khưu PHƯỚC QUANG

9) CHÙA TAM PHƯỚC
247 K II, Ấp Long Khánh 1, Xã Tam Phước, Huyện Long Thành,
Tỉnh Ðồng Nai
ÐT: 061. 511 590 – 0903. 856 854
Trụ trì: Tỳ khưu CHÁNH ÐỊNH

10) CHÙA PHƯỚC HUỆ (Long Thành)
311/9 QL 51, Khu Cầu Xeo, Huyện Long Thành,
Tỉnh Ðồng Nai
ÐT: 061. 845 502
Trụ trì: Tỳ khưu TÂM HỶ

11) CHÙA QUANG MINH
Ấp 1, Xã Long An, Huyện Long Thành,
Tỉnh Ðồng Nai
ÐT: 061. 845 872
Trụ trì:

12) CHÙA QUẢNG NGHIÊM
Ấp Ðông, Xã Phước Tân, Huyện Long Thành,
Tỉnh Ðồng Nai
ÐT: 061. 832 713 – 0903. 880 456
Trụ trì: Tỳ khưu TUỆ QUYỀN

13) CHÙA PHƯỚC QUANG
Ấp 1, Xã Hiệp Phước, Huyện Nhơn Trạch,
Tỉnh Ðồng Nai
ÐT: 061. 848 141
Trụ trì: Tỳ khưu CHƠN QUANG

14) CHÙA THÁI HÒA
Km 112, Ấp Hiệp Nhất, Huyện Ðịnh Quán,
Tỉnh Ðồng Nai
ÐT: 061. 852 810
Trụ trì: Tỳ khưu PHÁP TÂN

15) CHÙA PHƯỚC HUỆ (Ðịnh Quán)
Km 90, Ấp Cây Xăng, Xã Phù Tức, Huyện Ðịnh Quán,
Tỉnh Ðồng Nai
ÐT: 061. 639 598
Trụ trì: Tỳ khưu PHÁP HUYỀN

16) CHÙA TỪ THIỆN
Km 90, Ấp Ðồn Ðiền 1, Xã Túc Trưng, Huyện Ðịnh Quán,
Tỉnh Ðồng Nai
ÐT: 061. 639 899
Trụ trì: Tỳ khưu PHÁP ĐĂNG

17) CHÙA LINH PHÚ
Km 139, Quốc Lộ 20, Xã Phú Sổ, Huyện Tân Phú,
Tỉnh Ðồng Nai
ÐT: 061. 858 101
Trụ trì: Tỳ khưu PHÁP CĂN

HÀ NỘI

Chùa NỘI PHẬT
Thôn Nội Phật, Xã Mai Đình, Huyện Sóc Sơn,
Tp Hà Nội
Trụ trì: Tỳ khưu Minh Từ 

HUẾ

1) CHÙA TĂNG QUANG
2/3 Nguyễn Chí Thanh, Phường Phú Hiệp,
TP. Huế
ÐT: 054. 531 091
Trụ trì: Tỳ khưu MINH CHÁNH

2) CHÙA HUYỀN KHÔNG
Hương Hộ, Hương Trà,
TP. Huế
ÐT: 054. 550 138 , 0913. 457 006
Trụ trì: Tỳ khưu PHÁP TÔNG

3) CHÙA HUYỀN KHÔNG Sơn Thượng
Hương Hộ, Hương Trà,
Thừa Thiên Huế
Trụ trì: Tỳ khưu GIỚI ĐỨC

4) CHÙA THIỀN LÂM
Thượng 2, Xã Thủy Xuân, Phường Hương Thủy,
TP. Huế
ÐT: 054. 836 081
Trụ trì: Tỳ khưu HỘ TỊNH

5) CHÙA PHÁP LUÂN
(Tuệ Tĩnh Đường Liên Hoa)
3 Lê Quý Đôn
Thành phố Huế
ĐT: 054. 815 161
Trụ trì: Tỳ khưu TUỆ TÂM

6) CHÙA ĐỊNH QUANG
Xã Thủy Phương, Huyện Hương Thủy
Thừa Thiên Huế
Trụ trì: Tỳ khưu CHƠN HỮU

KHÁNH HÒA

1) TINH THẤT NHƯ Ý
Núi Sạn, Tây Nam 1, Vĩnh Hải,
TP Nha Trang
ÐT: 058. 833 825; 0905. 153 647
Trụ trì: Tỳ khưu PHÁP TÂM

2) Thiền trang VIÊN HÒA
Tổ 4, Thôn Cát Lợi, Xã Vĩnh Hương
TP Nha Trang
ĐT: 01699 460 309
Quản tự: Sc TỊNH HỶ

KIÊN GIANG

1) CHÙA THIÊN TRÚC (Chùa Phật Lớn)
Ðường Phương Thành, KP 4,
Phường Bình San, Thị xã Hà Tiên,
Tỉnh Kiên Giang.
ÐT: (077) 3852 993; 0983 830 024
Trụ trì: Tỳ khưu PHÁP HẢO

2) CHÙA LÁNG CÁT RATANARANGSI (Khmer)
KP4, Phường Vĩnh Lạc,
Thị xã Rạch Giá
ĐT: 077. 863 786
Trụ trì: Hòa thượng DANH NHƯỜNG

3) CHÙA SURIVANSA SURIYA (Khmer)
36 Cao Thắng, KP 3,
Phường Vĩnh Lợi, Huyện Rạch Sỏi,
Thị xã Rạch Giá
ĐT: 077. 864 270; 0913 790 192
Trụ trì: Tỳ khưu DANH DĨNH

4) CHÙA SÓC XOÀI RAJAKUSALA BOMPENHJAYA (Khmer)
Xã Sóc Sơn, Huyện Hòn Đất
Tỉnh Kiên Giang
ĐT: 077. 842 741
Trụ trì: Tỳ khưu DANH PHẢN

LÂM ĐỒNG

CHÙA ĐỊNH QUANG
Thôn Phú Thạnh, Xã Hiệp Thạnh, Huyện Đức Trọng
Tỉnh Lâm Đồng
ĐT: (063) 622 257
Trụ trì: Tỳ khưu Pháp Lực

QUẢNG NAM

1) CHÙA NAM QUANG
93 Cửa Đại, Thị xã Hội An,
Tỉnh Quảng Nam.
ĐT: 0510. 862 660
Trụ trì: Tỳ khưu HUỆ ĐỨC

2) CHÙA THÁI BÌNH
Xã Điện Phước, Huyện Điện Bàn,
Tỉnh Quảng Nam.

SÓC TRĂNG

1) CHÙA KH’LEANG (Khmer)
71 đường Lương Định Của (Mậu Thân)
Thị xã Sóc Trăng
ĐT: 079. 821 340
Trụ trì: Tỳ khưu TĂNG NÔ

2) CHÙA MAHATUP (Chùa Dơi, Mã Tộc) (Khmer)
73-B đường Lê Hồng Phong, Phường 3,
Thị xã Sóc Trăng

TIỀN GIANG

1) CHÙA PHÁP BẢO
44/448 Lý Thường Kiệt,
Phường 5, TP. Mỹ Tho, Tỉnh Tiền Giang
ÐT: 073. 878 169 – 073. 878 168
Trụ trì: Tỳ khưu BỬU HIỀN

2) CHÙA PHƯỚC HẢI (Tân Hiệp)
261/4 Ấp Rẩy, Thị trấn Tân Hiệp, Huyện Châu Thành
Tỉnh Tiền Giang
ÐT: 073. 831 066
Trụ trì: Tỳ khưu PHÁP NGỘ

3) CHÙA ÐÔNG PHƯƠNG
QL 1, số 317, Khu 5,
Thị trấn Cai Lậy, Tỉnh Tiền Giang
ĐT: 073. 916 722
Trụ trì: Tỳ khưu CHÍ THÀNH

4) CHÙA LINH CỔ
Ấp Thân Hoà, Thân Cửu Nghĩa,
Huyện Châu Thành, Tỉnh Tiền Giang
ĐT: 073. 3934 777 – 0918 609 435
Trụ trì: Tỳ khưu PHÁP GIỚI

TRÀ VINH

1) CHÙA BỬU CHÂU
70 Lý Tự Trọng, Phường 4, Thị xã Trà Vinh,
Tỉnh Trà Vinh
Trụ trì: Tỳ khưu NGỌC GIAO

2) CHÙA SAMRONG-EK
Quốc lộ 53, Khóm 6, Phường 8,
Thị xã Trà Vinh, Tỉnh Trà Vinh
ĐT: 074. 842 168
Trụ trì: Tỳ khưu SANTIPALO HỘ TỊNH (Thạch Kim Ngân)

3) CHÙA ANGORAJAPURI (Chùa Ang, Ao Bà Om)
Quốc lộ 53, Khóm 4, Phường 8,
Thị xã Trà Vinh, Tỉnh Trà Vinh
ĐT:
074. 842 062; 0913. 659 376
Trụ trì: Hòa thượng CANDASIRI NGUYỆT QUANG (Thạch Sóc Sang)

4) CHÙA KAMPONGNIGRODHA KOMPONG CHRÂY (Chùa Hang)
Khóm A, Thị trấn Châu Thành,
Huyện Châu Thành, Tỉnh Trà Vinh
ĐT: 074. 872 579

VĨNH LONG

1) CHÙA VIÊN GIÁC
50/5 Trần Phú, Phường 4, Thị xã Vĩnh Long,
Tỉnh Vĩnh Long
Trụ trì: Tu nữ THÁNH TRÍ

2) CHÙA SIÊU LÝ (Vĩnh Long)
162/8 Ðường 14-9, Phường 5, Thị xã Vĩnh Long,
Tỉnh Vĩnh Long
ÐT: 070. 823 885
Trụ trì: Tỳ khưu GIÁC SƠN

3) CHÙA BỬU QUANG (Vĩnh Long)
Xã Mỹ Thanh Trung, Thị trấn Tam Bình,
Tỉnh Vĩnh Long

4) CHÙA HẠNH PHÚC TĂNG SANGHAMANGALA
Ấp Trung Trạch, Xã Trung Thành, Huyện Vũng Liêm,
Tỉnh Vĩnh Long

5) TỊNH XÁ NGỌC ĐĂNG
Ấp Phú Tiên, Xã Trung Nghĩa, Huyện Vũng Liêm,
Tỉnh Vĩnh Long
ĐT: (070) 871 518
Trụ trì: Tỳ khưu Minh Thảo

-ooOoo-

Nghi Thức Tụng Niệm trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy

Nghi Thức Tụng Niệm
trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy

Ghi chú: Trích lược từ quyển Nghi Thức Tụng Niệm,
Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam, Chùa Pháp Luân, Houston, Texas.

-oOo-

A. Nghi thức và Thờ phượng

I. Nghi Thức

Nghi thức các khoá lễ luôn luôn có 4 phần:

1. Tác bạch: Gồm cả phần niêm hương cúng Tam Bảo. Phần tác bạch như một lời trình về duyên sự của buổi lễ. Tiếp theo là bài thỉnh chư thiên. Ðây là khởi đầu của tất cả khoá lễ.

2. Lễ Tam Bảo: Là phần xưng tán ba ngôi Tam Bảo. Tất cả các thời khoá đều có phần nầy dù đầy đủ hay giản lược.

3. Phần kinh văn: Gồm những Phật ngôn hay kệ tụng phù hợp với tinh thần của khoá lễ đã xướng trong lời tác bạch. Phần nầy có thể linh động. Vị chủ lễ có thể chọn những bài kinh thích hợp với thì giờ, hoàn cảnh và căn cơ của những người tham dự khoá lễ.

4. Phần hoàn kinh: Là phần sau cùng của mỗi khoá lễ với kinh Từ Bi Nguyện, Hồi hướng và Phục nguyện.

II. Thờ phượng

Sự thờ phượng nói lên lòng kính ngưỡng đối với Tam Bảo. Phần hình thức tuy không tuyệt đối cần thiết nhưng là trợ duyên thù thắng cho sự hành trì Phật Pháp. Dưới đây là vài gợi ý.

Trang nghiêm là điều cần lưu tâm trong sự thờ phượng. Nên thường xuyên lau dọn bàn thờ. Những lễ phẩm cúng dường nên tinh khiết như nhang, đèn, hoa, trái.

Nên thiết lập bàn thờ ở nơi trang trọng. Ðộ cao của bàn thờ chừng ngang vai trở lên là thích hợp.

Chỗ thanh tịnh rất tốt cho sự lễ bái và tập thiền. Sự tĩnh lặng rất cần thiết cho sự tập trung tinh thần.

Không nên xem thường yếu tố thẩm mỹ. Hình thức trang nhã tạo nên sự hoan hỷ của mọi người trong gia đình.

III. Tinh thần của nghi lễ

Có mười hạnh lành mang lại phước báu mà đức Phật gọi là Mười Phước Hạnh (pu~n~nakiriyuuvatthu). Sự tụng niệm của người Phật tử dựa theo tinh thần của mười phước hạnh nầy.

1. Bố thí. Danh từ nầy cần được hiểu rộng theo kinh điển là bất cứ sự hy hiến nào dù là cho, tặng, cúng. Cúng dường hương đăng hoa quả cũng được kể trong hạnh lành nầy.

2. Trì giới. Giới là quyết tâm tránh những nghiệp bất thiện. Ngũ giới, bát quan trai giới là những luật nghi được Phật dạy cho người cư sĩ. Nên tụng giới trong các thời khoá. Nếu có chư Tăng thì xin thọ giới.

3. Thiền định. Có nhiều phương pháp thiền định nhưng nói chung hướng tâm đúng cách, đúng đối tượng là phương pháp chính. Niệm Phật, từ bi quán cũng là một trong những phép tập thiền. Trong tất cả các thời khoá tụng niệm đều có cả hai phần nầy.

4. Cung kính. Là giữ lòng kính quí đối với những giá trị cao thượng. Lòng cung kính nuôi đức khiêm cung, giảm lòng kiêu căng ngã chấp. Trong hình thức lễ bái lòng cung kính là điều tối cần.

5. Phục vụ. Là lòng vị tha vì lợi ích cho người khác. Ðối với người tu tập, tinh thần phục vụ là cách hữu hiệu giảm thiểu thái độ vị kỷ, tự cô lập. Trong các khoá lễ tụng niệm đều có ý nghĩa lợi tha qua các bài tác bạch cầu an, cầu siêu và kỳ nguyện.

6. Thuyết pháp. Là sự chuyển đạt những lời dạy có khả năng khai thị tri kiến. Hầu hết các kinh văn là Phật ngôn. Tụng kinh là thuyết pháp cho mình và cho bất cứ ai có duyên lành lắng nghe.

7. Thính Pháp. Là nghe, học lời Phật dạy. Nghe pháp là tạo cơ hội cho tâm trí được suy tư trong điều kiện khách quan. Tụng kinh có nghĩa là vừa thuyết pháp vừa thính pháp.

8. Hồi hướng phước. Là nguyện lành hồi hướng công đức đến tha nhân. Hồi hướng phước không phải chỉ tăng phần công đức mà còn thể hiện được tình cảm, bổn phận với người thân. Trong tất cả các buổi tụng niệm đều kết thúc bằng lời hồi hướng phước báu.

9. Tùy hỷ phước. Là cùng vui với phước hạnh của người khác. Niềm vui nầy biểu lộ lòng rộng rãi không ganh tị và cũng là thái độ quý trọng thiện pháp. Lời tùy hỷ “Saadhu, Lành thay” được dùng rất phổ biến tại các quốc gia Phật giáo.

10. Huân tu chánh trí. Là làm thế nào cái nhìn được sáng suốt và chân chánh. Người tu tập nếu sống với tà kiến là làm hỏng tất cả công phu. Tụng kinh có cả hai tác dụng định tâm và khai thị.

Người có tín tâm chuyên trì tụng niệm lấy mười phước hạnh kể trên làm tinh thần nghi lễ thì không bao giờ sợ lầm lạc và càng hoan hỷ hơn với sự tu học của mình.

 

B. Xuất xứ, Ý Nghĩa và cách dùng các kinh văn

Hầu hết các kinh văn trong kinh tụng Phật giáo Nguyên Thủy là Phật ngôn trích từ Tam Tạng Kinh Ðiển. Theo tinh thần tụng niệm thì uy lực nhiệm mầu của sự gia trì dựa trên bốn yếu tố:

a) Lời Phật là lời linh diệu. Ðức Phật là bậc đại bi đại đức. Những lời Ngài không phải chỉ đầy đủ nghĩa văn mà còn chân xác, tương ứng với sự vận hành của thiên nhiên. Tôn giả Ananda trùng tụng lời Phật thường với thoại đầu “Evam me sutam (tôi nghe như vầy)“. Dầu trong tông phái nào thì Phật ngôn là căn bản của các kinh văn tụng niệm.

b) Chân ngôn là lời huyền nhiệm. Khi một sự thật được nói lên có nhiều sức mạnh cả hai phương diện mật và hiển. Trong kinh văn thường có câu: “Etena saccavaccena hotu me jayama”ngala”m — Nguyện nhờ chân ngôn nầy phát sanh điều cát tường“. Khi tâm thành và ý kinh được hợp nhất thì lời kinh được xem là chân ngôn.

c) Hiệu năng khai thị cũng là uy lực kinh. Ðức Phật dạy quả nhập lưu cao quý hơn đế nghiệp chuyển luân vương. Người tụng đọc kinh văn tâm được tịnh, trí được sáng thì đã nhận được sự lợi lạc to lớn của sự tụng niệm.

d) Ðức tin trong sạch là hạt giống của thiện pháp. Tụng niệm ân đức Tam Bảo là cách tăng trưởng niềm tin nhờ vậy tâm hồn hướng thượng và sự tu học được vững tiến. Có thể nói đây là lợi ích thiết thực mà sự tụng niệm mang lại.

Chính do bốn yếu tố trên, phần phụ lục nầy được thêm vào nhằm giúp quí Phật tử tìm hiểu về xuất xứ, ý nghĩa và duyên sự tụng đọc của các kinh văn.

1. Kinh Hạnh Phúc

Xuất xứ từ Kinh Tập (Sutta Nipaata) trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaaya) [PTS Sutta Nipaata, P. 46, London 1984]. Tựa kinh Phạn ngữ: Mahama”ngala Sutta.

Chữ “Hạnh Phúc” được dịch thoát từ Phạn ngữ ma”ngala có nghĩa là cát tường hay điềm lành. Một vị chư thiên bạch hỏi Phật cái gì là dấu hiệu tốt lành nhất trong cuộc đời. Ðức Phật trả lời bằng mười một bài kệ bao gồm ba mươi tám điều liên hệ mọi lãnh vực tu thân, gia đình, xã hội… Vì đề cập đến cát tường nên bài kinh rất thường được tụng trong các khoá lễ cầu phước. Những lời dạy trong kinh trở thành kim chỉ nam cho đời sống người Phật tử.

2. Kinh Từ Bi

Xuất xứ từ Kinh Tập (Sutta Nipaata), Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaaya) [PTS Sutta Nipaata, P. 25, London, 1984]. Tựa kinh Phạn ngữ: Mettaa Sutta.

Ðây là bài kinh đặc biệt nói về lòng từ. Ba bài kệ đầu dạy về những đức tánh cần thiết cho người muốn phát triển hạnh từ ái; đoạn thứ hai gồm 2 bài kệ nói về đối tượng của từ tâm; phần kế, 2 bài kệ đề cập những bất thiện pháp có hại cho lòng từ; tiếp theo là phương thức tu dưỡng; và bài kệ cuối cùng là quả phúc của từ bi. Bài kinh nầy được đức Phật dạy cho các tỳ kheo trì tụng nhằm mục đích hoá giải những quấy phá của phi nhơn khi các thầy đang tu tập trong rừng. Vì được giảng trong duyên sự như vậy, bài kinh thường được dùng để bảo vệ sự bình an đối với những quấy nhiễu của chúng sanh khuất mặt. Tất nhiên nội dung bài kinh là một cẩm nang cho người tu tập lòng từ.

3. Kinh Châu báu

Xuất xứ từ Kinh Tập (Sutta Nipaata) trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaaya) [PTS Sutta Nipaata, P. 39, London 1984]. Tựa kinh Phạn ngữ: Ratana Sutta.

Nguyên văn là Kinh Châu Báu nói về những giá trị vượt bực ở đời. Ở đây Phật Pháp Tăng là những bảo vật trân quí nhất. Không phải chỉ có lời tán thán mà là một trình bày khúc chiết đặc tính của Tam Bảo. Qua đó người tu tập tìm thấy dấu ấn quan trọng trong hành trình tâm linh của mình. Mười bài kệ trong số mười lăm đoạn của bài kinh nói đến bản thể ưu việt của ba ngôi báu và liên hệ bất khả ly của Phật Pháp Tăng. Cũng từ những đoạn nầy con đường tu tập và quả vị giải thoát được trình bày một cách hàm xúc. Ðức Phật dạy bài kinh nầy tại Vesalii nơi đang bị ba tai ách bệnh dịch, nạn đói, và phi nhân hoành hành. Tôn giả Ananda học thuộc lòng bài kinh và trì niệm trọn đêm suốt hành trình ba vòng thành Vesalii. Kết quả mọi tai ách đều được giải trừ. Cả tánh lẫn dụng của bài kinh đều đặc thù nên Kinh Châu Báu trở thành quan trọng nhất trong các bài kinh cầu an.

4. Kinh Chuyển Pháp Luân

Xuất xứ từ bộ Ðại Phẩm (Mahaavagga) thuộc Luật Tạng (Vinaya pitaka), cũng tìm thấy trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaaya) [PTS Kindred Saying V. 420-431] Tựa kinh Phạn ngữ: Dhammacakkappavattana Sutta.

Chuyển Pháp Luân nghĩa là chuyển quay bánh xe Chánh Pháp. Gọi như vậy vì đây là bài pháp đầu tiên trong cuộc đời hoằng đạo của đức Phật. Trong bài pháp lịch sử nầy, đức Thích Ca Mâu Ni đã trình bày giáo lý Tứ Diệu Ðế, đồ hình của giáo pháp, để giới thiệu con đường tu tập giác ngộ. Ngài Kiều Trần Như, bậc thánh đệ tử đầu tiên của đức Phật, nhờ nghe kinh Chuyển Pháp Luân mà liễu ngộ. Bài kinh tạo nên một niềm hoan lạc vô biên cho khắp hàng thiên chúng. Ðiều đó tạo nên một giá trị truyền thống trong nghi lễ đạo Phật. Bài kinh được dùng trong các khoá lễ cầu an.

5. Kinh Vô ngã

Xuất xứ từ bộ Ðại Phẩm (Mahaavagga) thuộc Luật Tạng (Vinaya pitaka I. 13-14) cũng tìm thấy trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaaya) I. 57. Tựa kinh Phạn ngữ: Anattalakkha.na Sutta.

Ðây là bài kinh dạy về lý vô ngã qua phương pháp quán niệm năm uẩn: xác thân, cảm thọ, nhận thức, hành hoạt và các giác quan. Kinh chia làm bốn đoạn chính. Ðoạn I nói về sự trạng vô hộ vô chủ của năm uẩn. Ðoạn II dạy về sự liên hệ tự nhiên của vô thường, khổ não và vô ngã. Ðoạn III xác định bản chất vô ngã của tâm lý, vật lý trong mọi hình thái, không gian, thời gian. Ðoạn IV nói về trình tự giải thoát của hành giả quán niệm vô ngã. Nguyên văn được giảng từng uẩn riêng biệt thích hợp cho sự tu tập quán niệm. Bản dịch gom chung năm uẩn tiện cho sự tụng đọc. Bài kinh được đức Phật thuyết nhằm khai thị năm tỳ kheo Kiều Trần Như đến quả vị hoàn toàn giải thoát nên thường được tụng trong các khoá lễ cầu siêu.

6. Kinh Ðáo bỉ ngạn

Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ: Dasapaaramii.

Ðáo bỉ ngạn hay ba-la-mật là pháp hành của các vị bồ tát trên đường hướng đến giác ngộ. Ðáo bỉ ngạn có nghĩa là pháp đưa đến bờ kia nên còn gọi là Pháp Ðộ. Mười ba-la-mật là bố thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, chí nguyện, từ tâm và hành xả. Có ba bậc tu ba-la-mật: một là vì đại nguyện tu tập hy sinh tất cả vật ngoại thân; hai là hy sinh tứ chi hoặc một phần thân thể; ba là hy sinh mạng sống. Vì vậy mười pháp đáo bỉ ngạn được tính là ba mươi. Bản dịch khai triển ý nghĩa từng pháp nhằm tác động tín tâm tu tập. Theo truyền thống, bài kinh nầy lợi lạc cho kẻ hiện tiền lẫn người quá vãng nên được dùng chung cho khoá lễ cầu an và cầu siêu.

7. Kinh Phật lực

Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ: Buddhajayama”ngalagaathaa .

Kệ tụng đề cập tám trường hợp đức Phật hoán chuyển nghịch cảnh. Những đối tượng cảm hoá gồm trời, người, mãnh thú. Ðức Phật dùng nhiều phương tiện khác nhau từ thần thông, đức độ cho đến tuệ giác. Ðây là những sự kiện tiêu biểu các chướng duyên xảy ra trong quãng đời hoá đạo của đức Thế Tôn. Sự trì tụng bài kinh không những mang lại năng lực nhiệm mầu mà còn là những bài học soi sáng thái độ hành xử trước nghịch cảnh của người tu tập. Kinh nầy được tụng đọc trong các khoá lễ cầu an, cầu tiêu tai.

8. Kinh Thắng hạnh

Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ: Jayaparitta.

Nội dung kinh đề cập ý nghĩa của sự kiết tường. Mở đầu là hình ảnh của đức Phật với sự thành tựu đạo quả vô thượng mang lại những tốt lành cho quyến thuộc và tất cả chúng sanh. Tiếp theo là Phật ngôn về thế nào là ngày tốt, giờ tốt theo đạo lý thánh hiền. Bởi vì đề cập đến pháp kiết tường nên bài kinh nầy thường được đặc biệt dùng để chú nguyện trong các khoá lễ cầu an.

9. Kinh Lễ Chánh Giác Tông

Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ: Sambuddhagaathaa.

Là bài kinh lễ bái chư Phật. Bởi vì trong mười phương ba đời có vô số Phật ra đời nên những con số được nêu ra có tánh cách đặc trưng nói lên sự biến mãn của Phật giới. Những con số nầy dựa theo thắng duyên gặp chư vị Thế Tôn của ba bậc đại bồ tát trong suốt quá trình huân tu giác hạnh.

Bậc Trí Hạnh Ðại Bồ Tát được thọ ký bởi hai mươi tám vị Phật; trong thời kỳ phát nguyện bằng lời trải qua mười hai ngàn vị Phật; khi còn mới khởi nguyện trong lòng trải qua năm trăm ngàn vị Phật.

Bậc Tấn Hạnh Ðại Bồ Tát được thọ ký bởi bốn mươi tám vị Phật; trong thời kỳ phát nguyện bằng lời trải qua hai mươi bốn ngàn vị Phật; khi còn mới khởi nguyện trong lòng trải qua một triệu vị Phật.

Bậc Tín Hạnh Ðại Bồ Tát được thọ ký bởi một trăm lẻ chín vị Phật; trong thời kỳ phát nguyện bằng lời trải qua bốn mươi tám ngàn vị Phật; khi còn mới khởi nguyện trong lòng trải qua hai triệu vị Phật.

Có hai ý nghĩa chính của bài kinh: thứ nhất là nói về truyền thống của chư Phật, thứ hai nói về quá trình tu tập khó thể nghĩ bàn của các đấng chánh đẳng chánh giác. Vì hai ý nghĩa nầy bài kinh trở thành quan trọng trong các thời khoá cầu an.

10. Kinh Bồ Ðề Phần

Xuất xứ từ Abhiddhammasangaha (Thắng pháp Tập yếu Luận). Tựa kinh Phạn ngữ: Bodhipakkhiyasangaha.

Nội dung kinh nói về ba mươi bảy pháp tu tập nằm trong các thể tài căn bản pháp hành là tứ niệm xứ, tứ thần túc, tứ chánh cần, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi và bát chánh đạo. Ðức Phật dạy rằng những vị đệ tử Phật về sau có thể có những quan niệm dị biệt về giáo pháp nhưng ba mươi bảy pháp bồ đề là pháp tu nền tảng chung của tất cả. Các nhà sớ giải cũng gọi đề tài nầy là bản đồ tu Phật. Bài kinh nầy tụng trong thời khoá nhật hành, đại chúng và cầu an.

11. Kinh Vô úy

Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ: Abhayaparittagaathaa .

Niệm tưởng uy đức Tam Bảo để xua tan những âu lo, sợ hãi là nội dung chính của bài kinh. Ở đâu có phước lành nơi đó là chốn hội tụ của các vị thiện thần nhờ vậy tiêu trừ điều bất tường. Cầu nguyện an lành cho tha nhân và xưng tán uy lực của chư Phật toàn giác, độc giác và thánh chúng cũng là cách đem lại sự an lành thanh thản, không sợ sệt. Kinh nầy đặc biệt tụng trong các khoá lễ cầu an tiêu tai.

12. Kinh Quán Niệm

Xuất xứ từ Kinh Pháp Cú (Dhammapada) và Kinh Tập (Sutta Nipaata). Tựa kinh dựa theo nội dung quán niệm.

Ðây là một sưu tập ngắn các Phật ngôn về ba pháp ấn: Vô thường, Khổ, Vô ngã. Sự suy niệm về thực tướng của đời sống giúp khai thông những bế tắc do dính mắc, mê lầm tạo nên. Ba đoạn đầu nói lên sự có mặt cùng khắp của vô thường, khổ, vô ngã trong ba cõi; đoạn giữa dạy về sự chết và thái độ sáng suốt của người hiểu đạo; ba bài cuối nói về con đường giải thoát xuyên qua sự liễu ngộ thực trạng cuộc đời. Kinh nầy được tụng trong khoá lễ cầu siêu và nghi thức nhật hành.

13. Kinh Duyên Sinh

Xuất xứ từ Mahaasaccaka Sutta, Trung Bộ Kinh I. M. I. 237-251. Tựa kinh Phạn ngữ: Pa.ticcasamuppaada .

Nội dung là một trình bày cô đọng về mười hai duyên sinh. Ðề tài nầy vừa trình bày tiến trình phức tạp tạo thành sự hiện hữu của người, cõi, nghiệp vừa minh định cái nhìn của giáo lý Phật đà không nằm ở những biên kiến hữu, vô, thường, đoạn. Ðây là một trong những giáo lý thâm sâu nhất của Phật Pháp. Theo truyền thống thì bài kinh nầy có uy lực phá tan kiến chấp và được tụng trong khoá lễ cầu siêu.

14. Kinh Suy Niệm về Nghiệp

Phật ngôn sưu tập trong Tạng Kinh (Sutta Pitaka).

Gồm những lời Phật dạy chỉ rõ về luật nhân quả và đời sống. Qua bài kinh nầy, giáo lý nghiệp báo không những được minh định trên nhiều phương diện mà còn là đề mục thiết thực để quán chiếu trong lời nói, hành động và tư tưởng hằng ngày. Với nội dung chân xác, kinh nầy có thể dùng trong tất cả khoá lễ nhằm mục đích soi sáng tâm ý, vun bồi phước hạnh.

15. Kinh Vạn Pháp Tổng Trì

Xuất xứ từ Bộ Pháp Tụ (Dhammasangini), Tạng Diệu Pháp (Abhidhamma Pitaka).

Ðây là một trình bày hệ thống về bản thể vạn pháp. Mỗi tiêu đề (maatikaa) bao gồm trọn “biểu đồ pháp giới”. Những chiết trung nầy được dùng để trình bày lý duyên hệ (paccayo) như những thành tố năng duyên và sở duyên. Theo sớ giải thì đây là bài kinh có thắng lực vượt thoát mê đồ vãng sinh lạc cảnh. Chính vì vậy Kinh Vạn Pháp Tổng Trì trở thành chánh kinh cho các khoá lễ cầu siêu bằng Phạn ngữ.

16. Kinh Chúc Nguyện

Trích từ Kinh Tập (Sutta Nipaata), trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaaya).

Ðây là một bài kinh chú nguyện được dùng nhiều nhất. Mục đích là phát huy công đức và hướng nguyện. Ba hình ảnh được dùng làm biểu tướng cho sự gia trì là biển cả đón nhận nước của muôn sông rạch chảy vào; ánh trăng tròn toả chiếu đêm rằm; và ngọc như ý ma ni khiến mọi ước vọng thành tựu. Y cứ trên công đức đã làm và hướng nguyện theo Phật ngôn chúc phúc sẽ mang lại phước lành đầy đủ. Bài kinh được dùng trong tất cả khoá lễ.

17. Kinh Hồi Hướng Vong Linh

Trích Bộ Tiểu Tụng (Khuddakapaa.tha), trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaaya), tựa kinh Phạn ngữ: Tiroku.d.dasuttam .

Nội dung bài kinh là Phật ngôn được thuyết dạy trong một duyên sự cầu phước cho thân nhân quá vãng. Nhiều người sau khi qua đời sanh làm ngạ quỷ vì bất thiện nghiệp. Những hương linh nầy thường tìm đến nhà thân quyến mong đợi phước lành hồi hướng. Ðức Phật dạy về sự tạo phước hợp đạo và làm thế nào hồi hướng đúng cách. Kinh nầy được tụng trong lễ trai tăng và cầu siêu.

18. Kinh Ghi Ri Ma Nan Ða

Trích từ Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaaya), tựa kinh Phạn ngữ: Girimaananda.

Bài kinh dạy về mười phép nội quán vô thường, vô ngã, bất tịnh, hệ lụy, đoạn tận, ly dục, tịch tịnh, vô trước, yểm ly và hơi thở có công năng giúp hành giả thành tựu tuệ giác, khắc phục bệnh căn. Ðức Phật truyền dạy mười pháp môn nầy cho tôn giả Ghi Ri Ma Nan Ða khi vị nầy đang bị bệnh nặng. Nhờ nghe kinh tôn giả khỏi bệnh. Do duyên sự như vậy nên kinh nầy đặc biệt trì tụng trong các khoá lễ cầu tiêu tai thân bệnh.

19. Kinh Tứ Niệm Xứ

Trích từ Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikaaya), tựa kinh Phạn ngữ: Satipathana Sutta.

Ðây là bài kinh căn bản của thiền quán. Một trình bày toàn diện bốn lãnh vực quán chiếu từ sắc thân, cảm thọ, trạng thái của tâm và sự tương quan các pháp. Bài kinh cũng nêu rõ về phương pháp quán và những thành tựu do sự tu tập nầy mang lại. Trong tất cả pháp hành, tứ niệm xứ được đức Phật dạy là cốt tủy của thiền định. Sự thọ trì kinh nầy trên cả hai phương diện tụng niệm và thực hành được xem là ưu việt nhất trong tất cả pháp tu dưỡng. Bài kinh được tụng trong khoá lễ nhật hành và cầu an.

20. Kinh Lễ Bái Sáu Phương

Trích đoạn từ kinh Si”ngalovada (Kinh Giáo thọ Thi-ca-la), trong Trường Bộ Kinh (DighaNikaaya).

Bài kinh nầy đức Phật dạy cho gia chủ Singaala (Thi-ca-la) về nghi lễ trong đạo lý của thánh nhân. Vị gia chủ nầy lễ bái sáu phương theo tập tục. Ðức Phật dạy phép thờ phượng nằm ở sự quí kính và tôn trọng. Sự quí kính chánh đáng nhất là làm tốt bổn phận. Sáu phương đông, nam, tây, bắc, trên, dưới được hiểu như sáu cương vị quan hệ với một người trong cuộc sống. Ðó là quan hệ cha mẹ con cái, vợ chồng, thầy trò, bằng hữu, xuất gia tại gia, chủ tớ. Những tương quan nầy nếu được lưu tâm và làm tốt thì là cốt tủy của lễ nghi. Ðức Phật đã nêu lên một cách chi tiết về những gì đáng làm trong đời sống người cư sĩ. Bài kinh được tụng trong các thời khoá nhật hành và đại chúng.

21. Kinh Sám Nguyện

Dựa theo tinh thần tu tập truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy.

Nội dung chính là sám hối mười bất thiện nghiệp từ thân khẩu ý và những khiếm khuyết trong hành xử hằng ngày. Những tâm sám nầy không phải chỉ phản tỉnh những gì thuộc quá khứ mà còn là những soi sáng mọi hành vi trong đời người. Cũng trong nội dung kinh văn sám nguyện có cả một trình bày toàn diện thế nào là tinh thần giới luật của một cư sĩ Phật tử. Bài kinh nầy là bài tụng căn bản cho khoá lễ sám hối cũng có thể tụng trong nghi thức nhật hành.

22. Kinh Lễ Hồng Danh

Trích trong bản kinh tụng truyền thống của Phật Giáo Nguyên Thủy.

Xưng tán hồng danh của hai mươi tám vị Phật. Ðây là những bậc toàn giác đã thọ ký cho đức Phật tổ Thích Ca Mâu Ni trong giai đoạn sau cùng của quá trình tu tập ba la mật hạnh. Kính lễ các ngài là bày tỏ lòng qui ngưỡng đối với ân lành truyền đăng tục mệnh của chư Phật. Nghi thức lễ bái nầy được trì tụng trong những duyên sự đặc biệt làm tăng trưởng lòng tịnh tín và nghị lực tu tập.

23. Kệ Niệm Ân Phụ Mẫu và Kệ Sám Hối Phụ Mẫu

Dựa theo tinh thần kinh Sonadanta, trong Kinh Bổn Sanh (Jataka).

Là kệ tụng xưng tán ân đức cao dày của cha mẹ và lời sám hối về lỗi lầm của con cái. Ðức Phật dạy bất hiếu là trọng tội và hiếu hạnh là thắng hạnh. Sự tâm niệm về thâm ân cha mẹ trong các thời khoá tụng niệm là một cảnh tỉnh tâm linh. Qua đó thể hiện được tinh thần tri ân và báo ân của người tu tập.

24. Kệ Phật Sử

Y cứ theo Kinh Phật Bản Hạnh (Buddhacarita), trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaaya).

Nội dung tóm lược cuộc đời đức Phật tổ Thích Ca Mâu Ni. Ba thời kỳ được nêu rõ là thân thế và đời sống của thái tử Siddhattha, quãng đời trước khi thành đạo và những năm hoá đạo. Ðức Phật không những là hiện thân của những đức lành mà còn là một nhân vật lịch sử với vô vàn cao đẹp. Cuộc sống và lời dạy của Ngài không mảy may khác biệt. Bài kệ nầy được tụng trong các đại lễ và các khoá tu.

25. Kệ Chiêm bái Xá lợi

Dựa vào Biên Niên Sử của Bộ Tiểu Phẩm, Tạng Luật.

Xá lợi Phật là phần di cốt của đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni. Lịch sử Xá lợi gắn liền với lịch sử Ðạo Phật. Xá lợi và cây Bồ Ðề là những linh thể biểu tượng cho đức Phật được chính Ngài cho phép tứ chúng thờ tự. Bài kệ nầy ngoài ý nghĩa tôn kính còn nêu rõ những giai đoạn lịch sử và các sắc dạng xá lợi. Bài kệ được tụng trong những buổi lễ chiêm bái xá lợi Phật.

26. Kệ Ba Pháp Ấn

Bài kệ trình bày các thực tướng Vô thường, Khổ, Vô ngã qua hiện thực đời sống. Với văn thể bình dị, bài kệ hướng dẫn sự quán chiếu đối với mọi biến đổi, phiền lụy của thân tâm. Kệ nầy được tụng trong các khoá tu học.

-oOo-

Trích: Nghi Thức Tụng Niệm, Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam,

Chùa Pháp Luân, Houston, Texas

-ooOoo-

Nghi thức Phật giáo Nguyên thủy

Nghi thức Phật giáo Nguyên thủy

Tỳ kheo Thiện Minh

1. Nghi thức Quy y và Thọ giới

Quy là trở về, Y là nương tựa. Quy y là trở về nương tựa nơi Tam Bảo – Phật, Pháp, Tăng. Người đời muốn học chữ hoặc nghề nghiệp nào phải nương tựa nơi thầy cô, tin tưởng, siêng năng học tập thì sẽ thành công. Người tu thì phải nương tựa nơi Tam Bảo, có lòng tin vững chãi, siêng năng học pháp và hành pháp thì tin chắc hiện tại an lạc, tương lai giải thoát. Thông thường, Quy y thì đồng thời phải thọ trì Năm giới: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Gìn giữ năm giới vừa có nền tảng đạo đức trong cuộc sống vừa có chủng tử giải thoát cho tương lai. Quy y và gìn giữ năm giới là một nếp sống tốt đạo đẹp đời.

Theo truyền thống Phật giáo, quy y và thọ trì năm giới là tự nguyện chứ không ép buộc. Xuất phát từ lòng thành ngưỡng mộ Phật-Pháp-Tăng, người cư sĩ tự quyết định quy y và thọ năm giới. Từ ý niệm đó, họ đem lễ phẩm nhang đèn, bông hoa… tìm đến một vị tăng có nhân duyên xin nương nhờ và vị này quy y, truyền giới cho họ. Phần lớn là vị này hướng dẫn trực tiếp đời sống tinh thần của họ để tu tập đúng theo chánh pháp, nhưng chúng ta đừng quên rằng chúng ta quy y Tam Bảo chứ không phải quy y vị thầy hay vị sư nào đó. Có suy niệm như vậy chúng ta sẽ không chấp thủ và dính mắc vào vị thầy của mình, đương nhiên sẽ bớt đau khổ khi thấy thầy của mình bị sụp đổ.

2. Nghi thức thờ Phật

Theo truyền thống của Phật giáo Nguyên thủy sau khi quy y và thọ giới là trong nhà phải thiết lập một thờ trang nghiêm giữa nhà để tôn thờ tượng đức Bổn sư Thích Ca. Những người có điều kiện thường thỉnh chư Tăng đến nhà để cử hành lễ An vị Phật, nếu không có điều kiện họ thỉnh tượng Phật đem đến chùa nhờ chư Tăng chú nguyện trước khi tôn thờ. Gia đình Phật tử của Phật giáo Nguyên thủy thờ duy nhất một tượng Phật Thích Ca và thờ ông bà chứ không thờ nhiều tượng như những tôn giáo hay hệ phái khác. Nhưng tượng Phật Thích Ca phải để cao hơn bàn thờ của ông bà. Nghi thức thờ phượng đơn giản nhưng uyên thâm. Thường thường tại bàn thờ Phật có đặt một bát nhang, đôi đèn để hai bên và hoa quả. Chú ý là Phật giáo Nguyên thủy không sử dụng chuông, mõ và xâu chuỗi, cho nên đừng thỉnh các món đó tốn kém và để trên bàn thờ rườm rà.

Ngày xưa, ông bà chúng ta quan niệm rằng tượng Phật Thích Ca chỉ tôn thờ ở trong chùa, còn ở nhà không trang nghiêm, ô uế nên không được thờ. Quan niệm này không đúng theo truyền thống của Phật giáo. Người Phật tử ngày nay xem kinh đã hiểu rõ lý nhân quả nghiệp báo nên việc tôn thờ tượng Phật Thích Ca ở nhà là việc làm chính đáng. Khi hiểu rõ giáo lý, người Phật tử thờ Phật Thích Ca với tác ý là để tôn thờ lễ bái, tự nhắc nhở việc tự làm lành lánh dữ, chứ không phải để cầu nguyện van xin.

3. Nghi thức Tụng kinh

Tụng kinh là một hình thức giúp cho tâm tập trung và an lạc. Tụng kinh là một nghi thức có ngay trong thời đức Phật còn sinh tiền, tuy nhiên nghi thức đó giản dị không giống như thời nay. Trong kinh Tiểu bộ có kể những giai thoại khi đức Phật dạy các thầy Tỳ kheo phải tụng đọc những bài kinh, thường đa phần Ngài dạy những bài kinh đó là vì sự bất ổn trong công phu tu tập của chư Tỳ khưu và chư vị trình bạch với đức Phật, nhân cơ hội đó Ngài dạy những bài kinh này. Ví dụ như khi chư Tỳ kheo tu tập trong rừng bị phi nhơn quấy phá làm cho tâm chư Tỳ kheo khiếp đảm và sợ hãi, khi đức Phật biết chuyện này Ngài dạy bài kinh Mettasuttam (Kinh Lòng Từ); một lần khác, khi chư Tỳ kheo tu tập trong rừng bị rắn cắn, ngài dạy bài kinh Khadhaparittam v.v. Nội dung những bài kinh này khi tụng đọc giúp cho tâm của chư kheo tăng thêm lòng Ðại Bi, rải lòng Từ cho các chúng sinh và cầu mong mọi loài đừng oan trái lẫn nhau. Những bài kinh này chư vị thọ trì và tụng niệm một mình trong khi tu tập ở trong rừng.

Ngày nay, dựa trên nền tảng căn bản đó, các vị trưởng lão biên soạn nghi lễ tụng niệm đầy đủ có cả phần đầu, phần giữa và phần cuối – cố nhiên không vượt xa lời dạy và những bài kinh của đức Phật. Thông thường một khóa lễ chia làm ba phần, phần đầu tán dương ân đức Tam bảo, phần giữa tụng những bài kinh Phật dạy như Ratanasutta (kinh Tam bảo), Mangalasutta (kinh Hạnh Phúc) v.v. Mục đích chính những kinh này khi chúng ta tụng đọc sẽ được tăng thêm đức tin và sự hiểu biết về Giáo pháp của đức Phật để thực hành đưa đến hạnh phúc, an lạc và giải thoát, chứ không mang tính thần quyền tha lực nào cả. Phần cuối là phần rải lòng Từ đến muôn loài và hồi hướng công đức đến cha mẹ, thầy tổ, chư Thiên v.v. Trước khi vào nghi lễ, những người tụng đọc phải đốt nhang đèn, đảnh lễ Tam Bảo tượng trưng cho Phật, Pháp, Tăng.

Nghi thức tụng niệm của chư Tăng và Phật tử về phần nội dung có căn bản giống nhau, nhưng cũng có những bài kinh chỉ có chư Tăng tụng đọc như các kinh Quán tưởng, kinh Phúc chúc đến Phật tử khi họ cúng dường đến Chư Tăng.

Do nhu cầu tín ngưỡng của một số đông Phật tử tại gia, nghi lễ Phật giáo ngày nay có thêm khóa lễ Cầu An, Cầu Siêu và hai thời Công Phu tối và sáng, nhưng vẫn không rời xa tinh thần Phật giáo truyền thống. Những nghi lễ đó giúp tạo duyên cho người tại gia dễ dàng thông hiểu căn bản chánh pháp, luôn được nhắc nhở rằng cầu an và cầu siêu có mục đích tụng đọc cho người sống nghe để có một đời sống không dễ duôi và từ đó, cố gắng tinh tấn tu tâm, hành trì đạo pháp.

4. Nghi thức Sám hối

Sám hối là hình thức ăn năn những lỗi lầm đã phạm và hứa sẽ không tái diễn. Bởi vì phàm phu lắm chuyện trần ai, đôi khi giới luật được thọ trì nhưng gìn giữ không trọn vẹn. Vì thế ngày sám hối trở thành ngày quan trọng đối với bậc xuất gia lẫn người tại gia. Một tháng có hai ngày sám hối, đó là 14 và 30, nếu tháng thiếu thì là ngày 14 và 29.

Ngày sám hối là do đức Phật chế định trong dịp đại hội Thánh gồm có 1250 vị thiện Lai Tỳ kheo ở Trúc Lâm tịnh xá vào ngày trăng tròn tháng giêng âm lịch. Về phía chư Tăng vào những ngày này phải cạo tóc và phải sám hối với nhau. Nếu trong chùa có bốn vị Tỳ kheo trở lên thì phải cử hành lễ tụng Giới Bổn. Nghi thức tụng giới, trước tiên chư Tăng phải cử hành lễ Tam bảo, sám hối lẫn nhau (ngồi đối diện trình bạch những tiểu giới mà mình đã phạm với vị đồng phạm hạnh). Hai vị vấn đáp lẫn nhau xem nghi thức để tiến hành tụng giới bổn đầy đủ chưa, nếu đủ một vị đại diện chư Tăng thông thạo giới sẽ tiến hành tụng Giới Bổn. Nếu có thời giờ đầy đủ, các vị sẽ tụng hết 227 giới, còn không, các vị chỉ tụng những phần giới quan trọng như Bốn Bất Cộng Trụ và Mười Ba Tăng Tàng. Tụng giới là trùng tuyên lại những giới luật của các thầy Tỳ kheo phải gìn giữ. Ðiểm đáng chú ý là giới Bốn Bất Cộng Trụ khi vị tăng phạm đến thì không được sám hối mà phải hoàn tục, còn những giới luật còn lại nếu có phạm thì sám hối được. Còn Sa di khi sám hối xong phải xin thọ giới lại với các vị Tỳ kheo. Xin giới là hình thức sám hối của các vị Sa di.

Theo đúng Giới luật thì không có ngày sám hối của người Phật tử cư sĩ. Những nước Phật giáo Nam truyền khác trên thế giới cũng thế. Vào những ngày 14 và 15, hàng cư sĩ chỉ đến chùa xin thọ 8 giới, bố thí đến chư Tăng, thính pháp và tham thiền, chứ không giống cách sám hối của Phật tử Nam tông Việt Nam. Phật tử Việt Nam vào ngày sám hối tụ hội đến chùa theo giờ đã quy định, dâng nhang đèn, lễ Tam bảo, đọc bài sám hối và thính pháp. Bài sám hối này là của các vị trưởng lão trong phái đoàn truyền giáo của Hòa thượng Hộ Tông sáng tác bằng lối văn vần lục bát. Nội dung đề cập quả báu của năm giới và khuyến khích mọi người hãy gìn giữ để có hạnh phúc. Nếu ai lỡ phạm thì hãy ăn năn sám hối và nguyện đừng tái phạm nữa.

Tại sao giới luật không đề cập việc sám hối của Phật tử mà các trưởng lão Phật giáo Nam tông Việt Nam lại chế đọc bài sám hối, và như thế đó có đúng không? Câu trả lời sẽ là: cũng không sai; bởi vì bài sám hối đó có nội dung đề cập đến năm giới, cho nên trước khi thính pháp, ôn lại giới luật của người cư sĩ là một việc làm rất hay. Cách thức ôn lại giới luật đó không khác cách sám hối của chư Tăng thực hiện hàng tháng.

5. Nghi thức Trai tăng

Trong giới luật, đức Phật cho phép đời sống của Sa môn là phải đi khất thực để nuôi mạng, nhưng nếu có thí chủ thỉnh đến nhà trai tăng thì được phép đến đó thọ thực. Ngày xưa đức Phật và hàng đệ tử sống bằng hạnh khất thực. Một lối sống giản dị, ít bận rộn, gần gũi với cuộc đời, tiện lợi trong việc tiếp độ chúng sinh.

Trai tăng nghĩa là cúng dường một bữa ăn đến những nhà tu hành. Hình thức trai tăng ngày này có thể thực hiện bằng nhiều cách, có thể tổ chức ở tư gia, ở chùa. Thông thường tổ chức như vậy là khi thí chủ có duyên sự trong gia đình như đám giỗ ông bà cha mẹ, đám cuới, tân gia hoặc cầu phước, cầu an v.v. Nếu tổ chức ở tư gia, thì thường thỉnh 4 vị chư Tăng hoặc nhiều hơn. Nghi thức là thí thủ phải chuẩn bị sẵn sàng thực phẩm và tứ vật dụng, để đến khi chư Tăng quan lâm, một vị đại diện trình lý do buổi lễ. Thông thường trong cuộc lễ, gia đình chủ nhà bắt đầu bằng lễ xin Quy y và thọ trì Năm giới, tác bạch cầu an gia đạo, cầu siêu thân bằng quyến thuộc đã quá cố , và tác cúng dường thực phẩm và tứ vật dụng đến chư Tăng. Sau đó đích thân gia đình phải dâng tận tay những lễ phẩm đến chư Tăng. Chư Tăng hoan hỷ thọ lãnh và khai kinh phúc chúc, cầu nguyện cho toàn thể mọi người trong gia đình. Dứt thời kinh thì Phật tử hồi hướng đến cho tất cả chúng sinh. Ðúng giờ thì chư Tăng độ ngọ. Nghi thức tổ chức ở chùa cũng tương tự như vậy, nhưng đôi khi có thêm phần thuyết pháp để gia đình có đầy đủ phước báu, vừa tài thí lẫn pháp thí.

Tổ chức trai tăng là một hành động tạo phước của người tại gia cư sĩ, đồng thời làm giảm thiểu tâm tham lam, bỏn sẻn, vun bồi lòng từ và hạnh bố thí. Bố thí là một việc làm rất khó, ngoại trừ chúng ta có lòng tin với Phật Pháp Tăng và có tình thương với nhân loại. Người tu cả xuất gia lẫn tại gia muốn tiến bộ trên con đường đạo trước tiên phải thực hiện hạnh bố thí, vì hạnh bố thí trong Thập độ Ba-la-mật là hạnh đứng hàng đầu. Chư Phật trong quá khứ giải thoát và giác ngộ phải thực hành trọn vẹn hạnh Bố thí trai tăng này.

6. Nghi thức Thuyết pháp

Thuyết pháp là gì? Là giảng Tứ diệu đế: khổ, nguyên nhân của khổ, diệt khổ, và con đường dẫn đến diệt khổ. Theo truyền thống của Phật giáo Nguyên thủy, sau khi giác ngộ, đức Phật thuyết bài pháp đầu tiên về bốn diệu đế này ở vườn Lộc Uyển Ba La Nại để tiếp độ 5 vị Kiều Trần Như.

Ngày nay hàng đệ tử của Ngài tiếp tục truyền thống đó, thuyết giảng Giáo pháp cho Phật tử để am hiểu lời dạy của đấng Giác Ngộ. Giáo pháp này sau khi đức Phật thị tịch, chư thánh tăng khéo gìn giữ và nhiều lần kiết tập. Người nào nghe và thực hành theo, có được công năng hạnh phúc an lạc và giác ngộ ngay trên cuộc đời này.

Nhận thấy tầm quan trọng của Giáo pháp. Chư Tăng thường xuyên tổ chức thuyết giảng vào những dịp lễ như Sám hối, ngày Chủ nhật, đám giỗ, trai giới v.v. Ðiểm đáng chú ý trong kinh điển ghi lại là người bố thí pháp sẽ được phước báu nhiều hơn các sự thí khác. Chúng ta cần hiểu rộng thêm, bố thí pháp không hẳn chỉ có chư Tăng mà người cư sĩ cũng có thể làm được. Người cư sĩ học pháp và hành pháp, rồi đem sự hiểu biết đó truyền cho thân bằng quyến thuộc hoặc diễn giảng cho họ nghe về pháp của đức Phật mà mình đã hiểu, động viên họ vào đạo, quy y giữ giới, ấn tống kinh sách, truyền đạt băng giảng cho những người không có điều kiện đến chùa nghe giảng v.v. như thế cũng gọi là Bố thí Pháp.

Thông thường tổ chức nghi thức thuyết pháp trình cho chư Tăng là Phật tử phải tụng kinh Tam bảo trước, pháp sư quan lâm pháp tọa, Phật tử xin quy giới, đọc bài cung thỉnh pháp sư, như: “Phạm thiên ngậm ngùi khẩn khoản, Phật nhận lời nhưng chẳng dĩ hơi, quyết lòng mở đạo dạy đời…” Sau đó, pháp sư lễ bái Tam bảo, chia phước đến Tứ chúng và bắt đầu vào thời giảng. Khi chấm dứt, Phật tử cùng nhau hồi hướng.

7. Nghi thức Hành thiền

Trong Phật giáo, người xuất gia và tại gia có hai điều cần phải làm, đó là học pháphành pháp. Trong hai điều này, đức Phật thường ca ngợi và tán thán người đang hành pháp (hành thiền), vì Giáo pháp của Ngài hướng đến giải thoát và giác ngộ, không còn tham sân si mà hành thiền là một pháp môn duy nhất để tiến đến bờ giác.

Ngày xưa những vị đệ tử của đức Phật, hoan hỷ trong Giáo pháp và xuất gia đến đức Phật xin thọ trì một đề mục, rồi sau đó tìm đến một trú xứ thanh tịnh, ngồi kiết già, lưng thẳng, chánh niệm trong hơi thở, không màng đến những việc thế gian. Hành xuyên suốt như vậy đến khi đoạn trừ phiền não, lậu hoặc. Nếu trong khi hành thiền có gặp những chướng ngại thì chư vị trở về báo cáo với đức Phật và Ngài sẽ hướng dẫn những phương cách giúp cho họ tu tập để có hiệu quả hơn. Ðó là nghi thức hành thiền ngày xưa.

Ngày nay, dù rằng hình thức hành thiền theo phương pháp ngày xưa vẫn còn gìn giữ nguyên vẹn, nhưng nhu cầu người hành thiền nhiều hơn nên trong một khóa thiền có số lượng tham dự đông. Do đó, nghi thức có phần đa dạng hơn nghi thức ngày xưa. Trong khóa thiền, mọi người thường thực hành tập thể. Một khóa như vậy có thể là một tuần, nửa tháng, một tháng, ba tháng, v.v. tùy theo điều kiện hoặc cũng có thể ít hơn, chừng một vài ngày. Những người đến với khóa thiền thường tinh tấn hành trì xuyên suốt, không vướng bận nhiều đến việc gia đình, và như thế, trong khóa tu họ sống trọn vẹn đời sống như bậc Xuất gia. Thường thường, trong khóa tu, họ phải thức dậy lúc ba giờ sáng, rồi bắt đầu 1 giờ thiền hành và1 giờ thiền tọa xen kẽ, hành trì cho đến 10 giờ tối, ngoại trừ giờ ăn sáng, ăn trưa và những nhu cầu sinh hoạt riêng trong cuộc sống. Mỗi ngày hoặc cách một ngày họ phải đến trình báo cho vị thiền sư biết về sinh hoạt tu tập của mình (trình pháp) để ngài kịp thời hướng dẫn mình tu tập tốt hơn. Tổ chức một khóa thiền đông như vậy phải có nội quy và người điều hành tốt. Thậm chí cho đến việc ăn uống, những người điều hành phải bố trí nhân sự để chu toàn lo cho các hành giả. Do đó, hành giả đến trường thiền chỉ biết tu và gìn giữ thân tâm trong sạch.

Tỳ kheo THÍCH THIỆN MINH
Tháng 05-2001

-ooOoo-

Lễ hội trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy

Lễ hội trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy

Tỳ kheo Thiện Minh

Trong Phật giáo Nam tông, những ngày lễ hội thường mang ý nghĩa lịch sử dựa theo kinh điển hơn là lễ hội dân gian truyền thống như những tôn giáo hay hệ phái khác. Ða số các ý nghĩa lịch sử đó dựa trên cuộc đời và sự nghiệp hoằng pháp của đức Phật Thế Tôn. Cho nên lễ hội là để biểu duơng đức hạnh và lời dạy của Ngài nhằm rút ra những bài học cho Tứ chúng áp dụng tu học. Vì thế, trong những ngày lễ hội này, Phật giáo Nam tông thường tổ chức lễ thọ hạnh Ðầu Ðà, thức một đêm không ngủ, tỉnh niệm nghe pháp và hành thiền hầu gieo duyên lành giải thoát, và nhờ đó người tại gia cư sĩ có cơ hội tốt để hiểu thêm về lời dạy của đức Phật hầu áp dụng tu tập có hiệu quả.

1. Ý nghĩa lễ hội rằm tháng Giêng (Màghapùja)

Về ngày rằm tháng Giêng, có hai ý nghĩa chính: một là đức Phât tuyên hứa và khẳng định với Ma vương ba tháng nữa Ngài sẽ nhập Níp-bàn (cho nên ngày nầy còn được gọi là ngày Phật di chúc), hai là ngày Ðại hội thánh tăng tại Trúc Lâm tịnh Xá.

Kinh Ðại Bát Níp-bàn có ghi: một hôm trên trên đường hoằng pháp, sau khi thọ trai ở tư gia chàng thanh niên Cunda, Ngài và hàng đệ tử ngự ngang đền tháp Pàvala. Ngài bảo Ànanda rằng: “Này Ànanda, bảo tháp này tuy cũ nhưng sửa chữa lại thì sẽ tốt đẹp hơn; cũng vậy, một vị Phật tổ do đắc Tứ thần Túc có khả năng duy trì tuổi thọ lâu hơn một kiếp của quả địa cầu”. Nhưng bất hạnh thay, lời nói của đức Phật, do năng lực thần thông của Ma vương che tâm trí khiến Ànanda không hiểu thâm ý của đức Phật để Ananda cung thỉnh Ngài ở lại trần gian thêm nữa để hóa độ chúng sinh. Ðể rồi sau đó đúng vào ngày Rằm tháng giêng, Ma vương chờ khi Ànanda đi nghỉ vào bạch Phật: “Bạch Thế tôn, những lần trước Thế tôn hứa với đệ tử là khi nào Tứ chúng đông thì Thế tôn sẽ nhập Níp-bàn. Vậy hôm nay xin thỉnh Thế tôn hãy nhập Níp-bàn, vì lẽ Tứ chúng đã đông và hàng tại gia lẫn xuất gia đã đắc quả nhiều”. Ðức Phật dùng tuệ giác chiếu rọi và sau đó trả lời Ma vương: “Này Ma vương! Còn ba tháng nữa Như Lai sẽ nhập diệt”.

Trong kinh có ghi lại, vừa khi Ngài nhận lời với Ma vương thì trời rung đất chuyển, bình địa nổi phong ba, gió thổi tứ bề, hoa lá héo sầu. Ànanda nghe tiếng rung chuyển bèn vào bạch thế Tôn nguyên nhân và được Ngài trả lời: “Như Lai vừa hứa với Ma vương còn ba tháng nữa sẽ nhập Níp-bàn”. Ànanda nghe nói thế khóc than, buồn tủi và cầu xin Thế tôn hoan hỷ ở lại thế gian thêm nữa để Tứ chúng nương theo tu hành. Ðức Phật bảo với Ànanda rằng Như Lai đã tuyên hứa với Ma vương rồi và chuyện này Như Lai đã gợi ý cho Ànanda hơn một lần nhưng không thấy Ànanda thỉnh cầu.

Ðồng thời với ý nghĩa trên, ngày trăng tròn tháng Giêng là ngày đại hội thường lệ của chư Phật tổ được gọi là Caturangasannipàta. Tuy nhiên trong lịch sử những vị Phật tổ trong quá khứ thì số tăng hội, thời kỳ đại hội, địa điểm có phần khác với đức Phật Thích Ca. Còn những yếu tố căn bản cho kỳ đại hội thì hoàn toàn giống nhau. Dường như đây là truyền thống của Chư Phật tổ. Ðại hội thánh tăng thời kỳ Phật Thích Ca hội đủ bốn chi:

– Ðúng vào ngày trăng tròn tháng giêng,
– Ðại hội có 1250 vị tỷ kheo, tự động đến thăm Ngài mà không mời thỉnh,
– Số tăng hội 1250 vị đều xuất gia là Thiện Lai Tỷ kheo (Ehibhikhu), và
– Các Ngài đều là Thánh tăng.

Ðại hội thánh tăng này khai mạc đúng vào ngày trăng tròn tháng giêng âm lịch tại Trúc Lâm tịnh xá (Veluvana). Trong đại hội, đức Phật thuyết cho 1250 vị tỷ kheo về Ba La Ðề Mộc Xoa (Patimokkha), được phân chia làm hai phần:

– Phần một: Giáo giới Ovadapatimokkha, nghĩa là Ngài tóm lược Giáo pháp của Ngài thành ba câu kệ ngôn:

Không làm điều ác (Sabbabàbassa akaranam),
Làm các hạnh lành (Kusalassu upasampadà),
Giữ tâm ý trong sạch (Sacittapariyotapanam).

Ðó là giáo giới của chư Phật trong quá khứ và của Như Lai vậy.

– Phần hai: Ngài giảng về Anàpatimokkha, có nghĩa là Ngài chuẩn y giới luật cho Chư tỷ kheo phải hành lễ Bố tát (Uposatha) mỗi tháng hai kỳ nhằm ngày 15 và 30 (hoặc 29). Lễ Bố tát là một hình thức giúp cho các vị xuất gia quán chiếu lại giới hạnh của mình cho được tinh nghiêm, nếu có sơ sót trong tiểu giới thì ngày hôm đó các vị sám hối với nhau.

Ngày nay chư Tăng Phật giáo Nam truyền vẫn còn gìn giữ truyền thống này vì Giới luật là nền tảng của Phật giáo, Giới luật còn thì Giáo pháp còn. Trong ba tạng kinh điển, đức Phật tuyên bố rằng theo thời gian, Luật tạng sẽ hoại diệt sau cùng. Khi nào Luật tạng hoại diệt thì lúc đó là thời mạt pháp, là khởi điểm hết nhiệm kỳ Giáo pháp của một vị Phật tổ.

Ðể kỷ niệm ngày lịch sử trọng đại đó, giới Phật giáo Nam tông tổ chức lễ rằm tháng giêng bằng nhiều hình thức nghi lễ khác nhau: như lễ hội đặt bát đến chư Tăng, lễ thọ giới, lễ quy y, lễ thuyết pháp, lễ thọ đầu đà… nhằm giúp người Phật tử có cơ hội gieo duyên lành trong chánh pháp.

Ðặc biệt là lễ Ðầu đà (Dhutanga): thức một đêm không ngủ để tưởng nhớ đức Phật – một con người vĩ đại, với một lý tưởng phi thường, suốt cuộc đời tận tụy hy sinh vì quyền lợi của tha nhân. Thông thường trong đêm đầu đà có nhiều tiết mục để người Phật tử tham gia học và thực hành thêm về giáo lý. Những tiết mục đó thường là Thuyết pháp, Chiêm bái Xá lợi, Hành thiền, Vấn đáp Phật pháp, Hái hoa chánh pháp, Luận đạo v.v. Người tham dự một đêm đầu đà, qua những mục đó, chắc chắn sẽ được hiểu biết giáo lý căn của đức Phật và sẽ có thêm niềm tin vững chắc ở Tam bảo.

2. Ý nghĩ lễ hội rằm tháng Tư (Vesàkhapùja)

Ðã từ lâu bộ phái Phật giáo Nam tông và Bắc tông có sự khác biệt về ngày sinh của đức Từ phụ. Ơû Việt Nam truớc năm 1963, Phật giáo Bắc tông sử dụng ngày mồng 8 tháng Tư là ngày Ðản sanh, nhưng sau đó y cứ theo Ðại hội Phật giáo Thế giới điều chỉnh lại để thống nhất là ngày 15 tháng Tư âm lịch là ngày Phật Ðản. Mặc dù vậy nhưng một vài nơi vẫn còn có quan niệm cho rằng từ mồng 8 tháng Tư đến ngày Rằm tháng Tư gọi là tuần lễ Phật Ðản.

Theo kinh điển Nguyên thủy của Phật giáo Nam tông, Bồ tát Ðản sanh, Bồ tát thành Ðạo và Phật nhập Níp-bàn đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch. Chúng tôi sử dụng danh từ “Bồ tát” (Ðản sanh và Thành đạo) do vì quan niệm Phật giáo Nam tông bất đồng với Bắc tông về sự “Thị Hiện” của Phật Thích Ca ở cõi Ta bà để tế độ chúng sinh. Phật giáo Nam tông cho rằng vì Ngài khi là vị Bồ Tát đã thành tựu các Pháp độ (Ba-la-mật) trong quá khứ nên kiếp này Ngài mới thành Phật để tế độ chúng sanh. Chính vì thế, nên Phật không có Ðản sanh và Thành đạo, mà chỉ có Bồ tát Ðản sanh và Bồ Tát Thành đạo. Kinh điển Pàli không chấp nhận quan niệm cho rằng người giải thoát khỏi sanh tử luân hồi (bậc thánh A-la-hán, Phật Ðộc giác, và Bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác) lại còn sanh trở lại Tam giới này. Người tái sanh trở lại Tam giới chỉ dành cho những hạng phàm phu. Cho nên, chúng ta cần phải nghiên cứu và tìm hiểu lại cho chính xác danh từ “thị hiện” trong kinh điển của một vài tông phái khác, bằng không, chúng ta dễ bị Bà-la-môn giáo đồng hóa chúng ta về mặt tư tưởng. Tuy điểm mâu thuẩn đó có vẻ nhỏ nhặt, nhưng có thể tạo sai lầm lớn về mục đích, và nếu không khéo thông hiểu, sẽ làm tri kiến của Phật tử hiểu sai khác về quả vị Phật và đạo quả Níp-bàn. Cần biết rằng bậc thánh đã giải thoát và nhập Níp-bàn thì vắng lặng phiền não, không còn Tham Sân Si. Các bài kinh trong Trung bộ thường có ghi về các vị đã giác ngộ: “Các Ngài đã đặt gánh nặng xuống, chuyện nên làm đã làm, sau kiếp sống này không còn tái sanh nữa”. Căn cứ vào câu kinh Nguyên thủy trên thì việc “thị hiện” của chư vị Phật tổ trong quá khứ theo quan niệm của một vài tông phái khác là một chuyện không thể xảy ra.

Do đó, ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử trọng đại của Phật giáo Nam tông Việt Nam cũng như trong các cộng đồng Phật giáo thế giới, để kỷ niệm một lúc ba sự kiện (Tam hợp): Bồ tát Ðản sanh, Bồ tát Thành đạo và Phật Bát Níp-bàn.

* Bồ tát Ðản sanh

Ở Việt Nam tới ngày rằm tháng tư , Giáo hội Phật giáo Việt Nam đều thống nhất biểu ngữ KÍNH MỪNG PHẬT ÐẢN. Ðứng trên phương diện hành chánh, biểu ngữ đó để thống nhất từ bắc chí nam là một nghĩa cử rất đẹp, đáng được duy trì, nói lên một tinh thần đoàn kết các bộ phái Phật giáo. Tuy nhiên đứng trên phương diện giáo lý Nguyên thủy, chúng ta cần phải xét lại từ ngữ đó. Về giáo lý thì Phật không có đản sanh mà chỉ có Bồ tát đản sanh. Nếu nói rằng Phật đản sanh thì có người sẽ hiểu Phật đã thành đạo từ nhiều kiếp trước, kiếp này chỉ thị hiện lại. Nhưng nếu đã là Phật, rồi đản sanh thì tại sao đến năm 35 tuổi Ngài còn phải chiến thắng Ma vương và thành đạo dưới cội Bồ đề?

Theo thánh điển Pàli, bộ Phật Tông (Bhuddhavamsa) giải thích có ba hạng Bồ tát tu tập 10 pháp độ (Ba-la-mật): Bố thí, Trì giới, Xuất gia, Trí tuệ, Tinh tấn, Nhẫn nại, Chân thật, Quyết định, Tâm từ và Tâm xả ba-la-mật. Mỗi pháp độ chia làm ba cấp: bờ kia, bờ trên và bờ cao thượng. Ví dụ như Bố thí đến bờ kia là Bố thí tài sản, của cải, sự nghiệp, vợ và con. Bố thí đến bờ trên là bố thí các bộ phận cơ thể như mắt và tứ chi, tim, gan… Bố thí đến bờ cao thượng là bố thí liên quan đến tánh mạng. Cho nên Bồ tát tu hạnh chánh đẳng chánh giác phải thực hành 10×3= 30 pháp độ.

Thế nào là ba hạng Bồ tát? Bồ tát tu hạnh Trí tuệ, Ðức tin, và Tinh tấn. Vị tu hạnh Trí tuệ từ lúc phát nguyện thành Bồ tát tu tập pháp độ đến lúc thành đạo dưới cội Bồ đề có thời gian 20 A tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp. A-tăng kỳ ở đây là một đơn vị thời gian không thể tính được mà trong kinh chỉ cho một hình tượng ví dụ vuông vức 16 cây số ngàn trong đó đựng đầy hạt cải, một trăm năm một vị trời xuống nhặt một hạt và cứ thế nhặt đến khi nào hết những hạt cải trong đó thì mới gọi là 1 A tăng kỳ. Còn 100 ngàn đại kiếp, kiếp ở đây là kiếp của quả địa cầu chứ không phải là kiếp người. Vị tu hạnh Ðức tin phải thực hành pháp độ mất 40 A tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Vị tu hạnh Tinh tấn thực hành pháp độ mất thời gian 80 A tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Trong kinh đó có ghi nhận đức Phật Thích Ca tu hạnh Bồ tát Trí tuệ và Phật Di lặc tu hạnh Bồ tát Tinh tấn.

Chú giải bộ Phật Tông (Buddhavamsa) có ghi rằng khi tiền thân của Phật Thích Ca hoàn thành pháp độ, Ngài hóa sanh trên cõi Trời Ðẩu Xuất đà (Tusita), có tên là Setaketu. Vào một ngày duyên lành hội đủ, Chư Thiên và Phạm thiên trong 10 ngàn thế giới đồng hội lại cung thỉnh Ngài giáng phàm xuất gia tu tập thành chánh quả để tế độ chúng sinh. Ngài quan sát năm điều kiện đản sanh theo thông lệ của chư Phật như sau:

1. Thời kỳ: Tuổi thọ chúng sinh thời này không quá 1000 tuổi mà cũng không kém 100 tuổi, vì sống lâu chúng sanh dễ duôi.

2. Quốc độ: Trung Ấn Ðộ, ở đó có nhiều sự bất đồng về giai cấp, nghèo khổ, bệnh hoạn, nhờ thế loài người dễ hướng thiện.

3. Dòng dõi: hoàng tộc Sakya. Trong 30 tục lệ của Chư Phật, tất cả vị Chánh đẳng Chánh giác kiếp cuối không tái sanh trong gia đình thấp hèn.

4. Châu: Ngài chọn Nam thiện Bộ Châu vì ở châu này loài người không quá thiện cũng không quá ác, nên dễ dàng liễu ngộ khi nghe Phật giảng.

5. Cha mẹ: Ngài chọn vua Suddhodana và chánh hậu Mahà-mayàdevì vì nhị vị này đã từng là cha mẹ của Ngài trong nhiều ngàn kiếp và có nhiều phúc đức.

Khi thấy đầy đủ nhân duyên, Ngài nhận lời giáng trần đúng vào Rằm tháng Sáu âm lịch và đúng ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch năm sau Ngài đản sanh ở vườn Lâm Tỳ Ni. Ðó là vào ngày thứ Sáu, rằm tháng Tư năm Tuất, và được đặt tên là Siddhattha (Sĩ-đạt-ta).

Ngài chào đời giống như bao nhiêu hài nhi khác, nhưng có điều khác thường là thân thể không bị hoen ố đồ nhơ uế mà còn rực rỡ như buổi bình minh. Ðiểm đặc biệt là khi Bồ tát đản sanh, có nhiều vị Chư Thiên và Phạm thiên có mặt trong lúc đó chúc tụng, tiếp đón một người cao quí đản sanh.

Sau khi đản sanh, đức Bồ tát mở mắt ngó về hướng đông thấy nhiều vị tiên cúng dường bông hoa cho Ngài. Ngài bèn quay mặt hướng bắc, ung dung bước đi bảy bước, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, ứng khẩu :

Aggohamasmi lokasmim
Settho ettho gianuttaro
Ayaca antimà jàti
Natthidàni punabbhavo.

Dịch nghĩa:

Ðây là kiếp chót của ta
Duyên sinh không không còn nữa
Trên trời dưới đất
Ta là bậc chí tôn

Sau khi ấy, ánh sáng rực rỡ, trời đất rung chuyển, hoa ưu đàm nở, chim hót líu lo, núi Tu Di dường như cúi đầu để tiếp đón bậc thầy của nhân thiên. Kinh có ghi sau khi ứng khẩu xong Ngài trở lại trạng thái bình thường như muôn triệu hài nhi khác.

* Bồ tát Thành đạo

Mặc dù Ngài sanh trưởng trong một gia đình vua chúa và thụ hưởng tất cả những hương vị của cuộc đời, nhưng đối với Ngài tất cả chỉ là bóng mờ sương đêm. Ðể rồi một ngày kia trong chuyến đi du ngoạn bốn cửa thành, Ngài nhìn tận mắt cảnh tượng già, bệnh, chết và một tăng sĩ. Chính nhờ cuộc vân du đó giúp cho Ngài phát huy được hạt giống giác ngộ mà Ngài huân tập từ muôn vạn triệu kiếp qua.

Từ ngày hạnh ngộ bốn cảnh động tâm trên, đêm ngày tâm trí miên man nghĩ đến việc thoát ly gia đình để tìm chân lý giác ngộ. Khi công chúa Da Du Ðà La, người vợ từ nhiều tiền kiếp của Ngài hạ sanh một người con, tên Rahula (La-hầu-la), đêm đó là đêm Ngài vượt cửa thành xuất gia tầm đạo. Ngài ra đi bỏ lại tất cả: cung vàng điện ngọc, vợ hiền con thơ, cung phi mỹ nữ kiều diễm, cha già…

Nhưng bỏ tất cả mà Ngài được tất cả: an lạc, bình yên, ung dung, không dính mắc, tĩnh lặng và Níp-bàn. Có người sẽ hỏi Ngài đi như vậy là thiếu trách nhiệm đối với người con, người cha, người chồng. Câu trả lời là không phải như vậy. Ngài ra đi để tìm một con đường giúp chúng sanh thoát khổ vĩnh viễn, đạt được hạnh phúc tối hậu là Níp-bàn. Sau khi thành đạo, Ngài đã trở về để tế độ vợ con và gia đình dòng họ, để họ cũng đạt được sự hạnh phúc vĩnh hằng như thế. Sẽ có người hỏi tiếp, tại sao trước khi thành Phật Ngài phải trải qua một đời sống thế tục, có vợ con… Xin thưa, đây là tục lệ của chư Phật, đã là tục lệ thì vị Bồ tát nào trước khi thành Phật cũng phải trải qua như vậy. Còn về ẩn ý thì phàm phu khó giải thích. Có thể nghĩ đơn giản là các Ngài có tất cả như vậy mà từ bỏ không bị dính mắc đấy mới là tâm hồn vĩ đại, một lý tưởng phi thường. Cũng có thể giải thích rằng phải trải qua một đời sống như vậy thì mới thấy rõ được sự vô vọng và ràng buộc của lòng tham thủ trong tâm mỗi người.

Khi bỏ tất cả để xuất gia, Ngài tầm sư học đạo, nghe nơi nào có vị thầy trứ danh Ngài liền tìm đến tham vấn. Tất cả những vị thầy trứ danh thời đó Ngài đều đến học và thành công tất cả những sở đắc của họ. Thậm chí Ngài khổ hạnh sáu năm chỉ còn ăn ngày một hạt mè để cầm hơi, đến mức độ chỉ còn da bọc xương. Cuối cùng Ngài nghiệm ra một điều là pháp mà Ngài muốn tu chứng không có ở những vị thầy đã dạy Ngài. Quyết chí bỏ khổ hạnh, ăn ngày một buổi và bắt đầu tham thiền nhập định dưới cội Bồ đề. Ðúng vào ngày thứ Tư, của ngày rằm tháng Tư, năm Dậu, Ngài hoàn toàn giác ngộ, Chư Thiên, Phạm thiên đồng nhau ca tụng Ngài với 10 hồng danh: Ứng cúng , Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế tôn.

Trong kinh có ghi lại đêm thành đạo của Ngài đã diễn ra nhiều chuyện phi thường. Thứ nhất là việc Ma vương đến thử thách Ngài, dùng vũ lực chiến đấu và dùng cả tuyệt chiêu mỹ nhân kế. Nhưng tất cả đều bị vô hiệu hóa. Sở dĩ Ngài chiến thắng được đạo quân của Ma vương là nhờ Ngài khéo huân tập ba mươi pháp độ. Còn về mỹ nhân kế thì đã có giả thuyết cho rằng đó là cách nói ẩn dụ về Tham Sân Si. Người nào diệt tham sân si sẽ chiến thắng ba cô gái Ma vương đẹp tuyệt trần. Danh từ Ma vương (Mara) thường thường chúng ta cho là xấu là ác, nhưng Ma vương ở đây chính là đức vua trời Tha Hóa Tự Tại, người có nhiều quyền lực và phước báu. Chính đức vua trời này thường theo phá đức Phật. Nhưng điểm đáng lưu ý ở đây là những vị Phật tổ trước không bị Ma vương theo phá. Tại sao Phật Thích Ca bị Ma vương theo phá?

Theo kinh điển truyền thống thì một kiếp nọ có ba đứa bé chơi nhau ngoài đường, bỗng gặp một vị Phật. Ðứa thứ nhất hoan hỷ cúng dường và phát nguyện: do nhân này đệ tử xin nguyện sẽ trở thành Phật tổ trong tương lai. Ðứa thứ hai nghe vậy phát biểu, nếu mày thành Phật tao sẽ theo phá mày. Ðứa thứ ba nghe vậy phát biểu, nếu mày phá tao sẽ trị mày. Không ngờ câu chuyện ba đứa nhỏ trong quá khứ về sau thành hiện thực. Ðứa thứ nhất trở thành Phật Thích Ca, đứa thứ hai trở thành Ma vương. Sau khi Phật Níp-bàn ba trăm năm, vào lúc khi Ma vương phá Ðại hội Kết tập lần ba, thì đứa nhỏ thứ ba bấy giờ là vị Sa-di A-la-hán đã trừng trị Ma vương tâm phục khẩu phục.

Sau khi toàn thắng Ma vương, trong canh đầu Ngài thiền định bằng hơi thở, tâm thanh tịnh, tuần tự Ngài đắc bốn bậc thiền hữu sắc. Trên cơ sở tâm thanh tịnh, Ngài hướng tâm tu tập và chứng đắc Túc Mạng Minh (pubbenivàsànussati). Túc mạng minh nghĩa là biết được vô số lượng kiếp, sanh châu nào, tên tuổi, dòng họ, cha mẹ… Trong canh giữa và canh chót Ngài chứng đắc Thiên Nhãn Minh (Dibbacakkhunàna) và Lậu Tận Minh. Thiên nhãn minh là thấy rõ, biết rõ kiếp vị lai của từng chúng sinh, Lậu Tận Minh là tâm thanh tịnh trong sạch do nhờ không bị phiền não chi phối, tâm không còn bị nhiễm bụi trần, tận diệt mọi lậu hoặc.

Trên đà phát triển Thiền An Chỉ (Samàtha-bhàvanà) cực mạnh, Ngài chuyển qua Thiền Minh Tuệ (Vipassanà-bhàvanà), thấy rõ biết rõ Thập Nhị Nhân Duyên bằng chiều thuận, nghĩa là trí tuệ thấy rõ, biết rõ sự Sanh. Ngay khi đó Ngài chứng ngộ Khổ đế và Tập thánh đế. Ðồng thời trí tuệ thấy rõ,  biết rõ sự Diệt theo Thập Nhị Nhân Duyên bằng chiều nghịch, ngay khi đó Ngài chứng ngộ Diệt và Ðạo thánh đế. Giờ đây, trí tuệ Ngài đã thẩm thấu được Tứ thánh đế qua ba luân và mười hai thể cho nên Ngài là bậc A-la-hán Chánh đẳng Chánh giác trong Tam giới này, nên Ngài có hồng danh là Sammàsambuddho.

Tâm hoàn toàn an lạc, giải thoát, đây là lời nói đầu tiên sau khi thành đạo:

“Trong vô vạn kiếp Như Lai lặn lội tìm kiếm anh thợ cất nhà thì sự sanh đã khiến Như Lai đau khổ vô vàn. Này Tham ái (anh thợ), ngươi đã bị Như Lai khám phá ra rồi, từ nay ngươi không còn xây nhà cho ta nữa, rui mè… đã bị Như Lai phá vỡ, tâm Như Lai hoàn toàn vô hành, vô nhiễm.”

Qua lời trên chúng ta thấy rằng đức Phật đã nói lên nỗi niềm đau thương của Ngài trong vòng sanh tử luân hồi. Bài học kinh nghiệm của đức Phật ngày xưa cũng là bài học cho chúng ta ngày nay. Sự sanh đó chính là sợi dây tham ái trong tài sắc lợi danh, dính mắc, ích kỷ, tham lam, bỏn sẻn. Ngài nhận ra một điều là tất cả chúng sinh hiện trầm luân đau khổ là vì những pháp trên. Nay Ngài đã đoạn diệt chúng rồi và Ngài diệt luôn cả thói Tiền Khiên Tật, là những tật xấu huân tập nhiều đời, nhiều kiếp. Các bậc thánh A-la-hán Thinh văn không đạt được điều này. Cho nên là bậc thánh A-la-hán Chánh đẳng Chánh giác, thân khẩu ý của Ngài thật trọn vẹn.

* Phật nhập Níp-bàn

Khi đã thành Phật, Ngài tự thấy giáo lý ngược dòng ái dục của chúng sinh nên do dự về sứ mạng hoằng pháp. Vua trời cõi cao nhất trong tam giới là Phạm thiên Sahampati bèn đại diện Tam giới cung thỉnh đức Phật hoằng pháp độ đời. Ngài quan sát nhận thấy chúng sinh có nhiều thứ, giống như hoa sen, có loại còn nằm dưới bùn, có loại vượt lên khỏi bùn, lưng lửng có loại trồi lên khỏi mặt nước. Cũng như có có người mắt mù, có người mắt sáng không cần tế độ, nhưng có người còn chút bụi dính trong mắt có thể tế độ được… Ngài nhận lời và bắt đầu công cuộc hoằng dương Chánh pháp. Do sự tích đó, ngày nay khi bắt đầu buổi thuyết pháp, các Phật tử thường đọc bài cung thỉnh pháp sư: “… Phạm thiên vẫn ngậm ngùi khẩn khoản, Phật nhậm lời nhưng chẳng dĩ hơi, Quyết lòng mở đạo dạy đời, Nhắm vườn Lộc Giả Ngài dời chơn sang …” (Kinh Nhật Tụng Cư sĩ, Tỳ kheo Tăng Ðịnh biên soạn).

Bài pháp đầu tiên của Ngài giảng ở Isipatana tiếp độ 5 vị Kiều Trần Như (Kondannà) là kinh Chuyển pháp luân (Dhammacakkavattana), và tiếp theo đó là 45 năm thuyết pháp giảng đạo cho những chúng sinh nào hữu duyên giác ngộ.

Thuận theo lẽ vô thường của trời đất, năm 80 tuổi, Ngài nhập Vô Dư Níp-bàn tại vương quốc Kusinara, để lại một di sản pháp bảo vô cùng hữu ích cho nhân loại. Một con người, một cuộc đời tận tụy hy sinh tất cả vì an lạc giải thoát của chúng sinh. Ðể hiểu Ngài nhiều hơn, chúng ta hãy đọc lời Di huấn tối hậu của Ngài trước khi vĩnh biệt trần gian: “Này tứ chúng, trước khi giã từ các vị, Như Lai khuyên các vị một điều: các pháp hữu vi điều vô thường. Do đó các vị chớ nên dễ duôi quên mình. Cúng dường Như Lai cao thượng là thực hành đúng chánh pháp”. Quả thật lời dạy của Ngài đến tận bây giờ cũng chỉ vì an lạc giải thoát của chúng sinh, không màng chi đến quyền lợi cá nhân.

Có người đặt vấn đề lý do nào đức Tôn Sư nhập diệt ở vương quốc Kusinara? Vì vương quốc này nhỏ bé hơn những cường quốc khác. Như chúng ta biết đức Phật là thầy của chư thiên và nhân loại, và mỗi việc làm của Ngài đều có ngụ ý. Sở dĩ Ngài quyết định nhập diệt ở đó là vì những lý do sau:

– Vương quốc này xưa kia là nơi những vị vua chuyển luân Thánh vương ra đời và đã có nhiều gắn bó thân thiết với Ngài trong vô số kiếp .

– Nếu Ngài nhập diệt ở nơi khác thì sẽ không có cơ hội tiếp độ đệ tử Subhadda (học trò cuối của đức Phật).

– Nếu Ngài nhập diệt ở những cường quốc khác sợ e Xá Lợi của Ngài không được chia đều cho các vương quốc khác tôn thờ và ở đây có vị Bà La môn Sona là người hiểu biết phân chia Xá Lợi đồng đều. Do đó chiến tranh sẽ không diễn ra vì sự tranh giành Xá lợi của Ngài.

Nên mặc dù bệnh kiết lỵ đang hành hạ thân xác, đường đi vô vàn hiểm trở, Ngài lại hành trình du phương bằng chân không, Ngài đã quyết định viên tịch tại Kusinara.

Có người hỏi Níp-bàn là gì? Khi đức Phật Thích Ca nhập Níp-bàn thì Ngài sẽ đi về đâu? Danh từ Nam phạn Pàli “Nibbàna” (Bắc phạn, Sankrit: Nirvana) gồm có hai phần: “Ni” và “Vàna”. “Ni” là tiếp đầu ngữ chỉ sự phủ định. “Vàna” là ái dục. Ái dục là nguồn gốc sanh tử luân hồi của chúng sinh và là nhịp cầu nối kiếp sống này sang kiếp sống khác, nên ngày nào còn bị ái dục hay luyến ái trói buộc thì còn tạo nghiệp mới, và nghiệp mới này phải trổ dưới một hình thức nào đó, trong vòng sanh tử. Khi chấm dứt ái dục thì không còn tạo nghiệp mới, lúc đó thành đạt Níp-bàn, chấm dứt sanh tử luân hồi. Thêm một lối định nghĩa nữa, Níp-bàn là dập tắt những ngọn lửa Tham, Sân và Si. Ngày nào không còn tham sân si thì ngày đó chúng ta đắc chứng Níp-bàn. Níp-bàn có hai loại: Hữu dư và Vô dư Níp-bàn (Anupàdisesa và Apàdisesa nibbàna dhàtu). Hữu dư Níp-bàn là vị A-la-hán còn thân ngũ uẩn, Vô dư Níp-bàn là vị A-la-hán không còn thân ngũ uẩn.

Vậy người nhập Vô dư Níp-bàn sẽ đi về đâu? Trong kinh Milinda Panha (Vua Milanda vấn đạo), Ngài Nàgasena (Na-tiên) giải thích câu hỏi ấy như sau: Níp-bàn không phải ở bốn phương tám hướng. Nhưng Níp-bàn thực sự có và người nào có cuộc sống chân chánh, giới hạnh trang nghiêm, chú tâm thiền định thì dù ở Hy Lạp, Trung Hoa, Kosala… đều có thể thành tựu Níp-bàn. Cũng như lửa, không có tích trử một nơi nào đặc biệt, nhưng khi hội đủ điều kiện thì lửa phát sanh. Cũng thế ấy, ta không thể nói Níp-bàn ở đâu, nhưng khi tạo đủ duyên thì quả Níp-bàn được thành tựu…

Trong kinh Rohitassa sutta có ghi Phật ngôn sau đây: “Như Lai tuyên thuyết rằng thế gian (đau khổ), nguồn gốc của thế gian, sự chấm dứt thế gian và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian, đều nằm trong tấm thân một trượng này cùng với chánh niệm và tuệ giác”.

Nói đến Níp-bàn ở đâu, trong Tương Ưng bộ kinh có nói: “Nơi mà bốn nguyên tố cấu thành vật chất có đặc tánh dính liền, duỗi ra, đốt cháy và di động, không còn chỗ đứng”. Trong kinh Udana, đức Phật có dạy: “Trăm sông hướng về biển cả nhưng không vì thế mà mực nước dâng lên quá cao hay xuống quá thấp. Tương tự không vì lẽ có nhiều bậc Thánh Thinh Văn, Phật Ðộc Giác và Phật Toàn Giác nhập vô dư Níp-bàn mà Níp-bàn ở đó quá đông đúc hay quá thưa thớt”. Do lẽ đó, Níp-bàn không phải là cảnh trời nào đó dành riêng cho một cá thể xuất chúng mà là một pháp, một sự thành tựu mà mọi chúng sinh đều có thể đạt đến.

Níp-bàn là pháp chân đế, trừu tượng còn hơn tâm thức, cho nên chúng ta không thể giải thích bằng từ ngữ hiệp thế, mà chỉ thật sự trực nhận được Níp-bàn khi nào chúng ta hoàn toàn giải thoát khỏi tham sân si. Về vấn đề này, đức Phật Ngài cũng ít khi giải thích mà Ngài chỉ dạy Tứ chúng nên thực hành Bát chánh đạo thì sẽ thành tựu Níp-bàn. Tại sao Ngài không giải thích nhiều về Níp-bàn? Vì Níp-bàn được thành tựu bằng sự thực hành và tuệ giác chứ không phải bằng các hý luận, lý thuyết suông.

Lại nữa, đối với người chưa thành tựu Níp-bàn mà Ngài có giải thích thì chẳng những họ không tin mà còn hoài nghi về lời dạy của đức Giác ngộ. Giống như câu chuyện chị Cá và anh Rùa đàm luận. Chị Cá lâu quá không gặp anh Rùa nên hỏi lâu nay anh đi đâu? Anh Rùa đáp đi lên đất liền. Chị Cá hoàn toàn không tin lời của anh Rùa. Anh Rùa cố gắng hết sức để giải thích về đất liền nhưng chị Cá không thể nào hiểu nổi. Tại sao? Vì chị Cá chưa có khái niệm về đất liền và chưa bao giờ lên thăm đất liền.

Ðể kỷ niệm ngày lịch sử ba dịp trọng đại này, Phật giáo Nam tông tổ chức đại lễ Rằm tháng Tư vô cùng trọng thể. Những nghi thức này rất là đặc thù. Vào buổi sáng, Phật tử vân tập đến chùa làm lễ bái Tam bảo, thính pháp, đặt bát hội đến chư Tăng. Buổi tối, chư Tăng và Phật tử thức trọn đêm không ngủ để ôn lại cuộc đời và giáo Giáo pháp của đấng Cha lành, cùng hành thiền, tu tâm, giác niệm.

3. Ý Nghĩa Lễ Hội Rằm Tháng Sáu (Àsàlhapùjà)

Căn cứ theo kinh điển truyền thống Pàli tạng thì ngày Rằm tháng Sáu chẳng những là ngày khởi điểm mùa an cư Kiết hạ của chư Tăng Phật giáo Nam tông mà còn đánh dấu những sự kiện quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp đạo pháp của đức Tôn sư. Tuy nhiên ở Việt Nam, ngày Rằm tháng Sáu cũng vẫn còn xa lạ đối với đối với đa số Phật tử. Dựa theo kinh điển truyền thống, ngày trăng tròn tháng Sáu âm lịch là ngày kỷ niệm lịch sử trọng đại một lúc bốn sự kiện:

1/ Bồ tát giáng trần
2/ Bồ tát xuất gia
3/ Ðức Phật chuyển Pháp Luân
4/ Ðức Phật thị hiện song thông nhiếp phục ngoại đạo

* Bồ tát giáng trần

Theo bộ kinh Phật Tông, Bồ tát tu hạnh Trí tuệ phải thực hành pháp độ khoảng 20 A tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Tiền kiếp của Phật Thích Ca là Ngài Vessantara thực hành đại thí đến cụ già Jùjaka thành tựu. Sau đó hết tuổi thọ, Ngài tái sanh vào cõi Trời Ðẩu Xuất (Tusita) có tên là Santusita. Ở cõi Trời này lúc nào cũng trang nghiêm và thanh tịnh, ngoài trừ những ngày Trai giới: mồng 8, 15, 23 và 30. Trong những ngày này, Chư Thiên các nơi vân tập về đây để nghe đức Bồ tát Setaketu thuyết pháp. Thường thường Ngài giảng về bố thí, trì giới, tham thiền, tội ngũ trần, đề cao hạnh xuất gia, ba tướng của vũ trụ… giọng nói của Ngài thanh tao như trời Phạm thiên, y phục chỉnh tề, hào quang sáng chói. Sau thời giảng, Chư Thiên vô cùng hoan hỷ, chấp thọ lời dạy của Ngài và cáo biệt trở về cung điện của mình.

Riêng đức Bồ tát lúc nào cũng trầm tư mặc tưởng về chí nguyện độ đời của mình. Vì thế Ngài lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng giáng phàm để thành đạo. Thông lệ các vị Bồ tát mặc dù tu hạnh nào trước khi thành Phật cũng phải ngụ trên cõi Trời này để chờ thời gian thích hợp giáng phàm. Bồ tát Setasetu sống trên cõi Trời Ðâu suất khoảng 4000 tuổi. Lúc đó, trời Ðế Thích và Chư Thiên nhận thấy ở cõi Diêm phù đề đã vắng bóng Phật tổ từ lâu nên đồng nhau cung thỉnh Ngài giáng phàm để sau này cứu độ chúng sinh. Ngài quán chiếu năm điều:

– Thời kỳ (kàla): Thời kỳ tốt nhất là chúng sinh sống không quá 1000 tuổi mà cũng không quá 100 tuổi. Lý do là nếu sống lâu thì con người đâm ra dễ duôi, bất chấp tội phước; còn như yểu số thì con người chỉ lo mưu cầu danh lợi, thỏa mãn vật chất, không đủ thời gian tu niệm.

– Quốc độ (desa):ở đây không quá giàu mà cũng không quá nghèo, sự bất công và sự phủ phàng lúc nào cũng hiện diện trong cuộc sống. Nhờ thế con người sẽ dễ hướng thiện. Lại nữa quốc độ này phải nằm ngay trung tâm của cõi Diêm phù đề.

– Châu (padìpa): Loài người hiện sống và tồn tại ở bốn châu thiên hạ, đó là Ðông thắng thần châu (pubbavidehadìpa), Tây ngưu hóa châu (aparagoyànìdìpa) , Bắc cưu lu châu (uttarakuradìpa), Nam thiện bộ châu (jampudìpa). Ðức Bồ tát chọn Nam thiện bộ châu, vì tại châu này chúng sinh không quá văn minh kiêu kỳ mà cũng không quá lạc hậu đần độn. Nhờ vậy, khi gặp Phật, họ sẽ dễ lãnh hội giáo lý, tu hành mau đắc đạo.

– Giòng dõi (kula): Theo 30 tục lệ của chư Phật, là vị Phật tổ không thể nào giáng phàm vào dòng dõi thấp hèn, nếu vậy thì sẽ bất lợi trong việc hoằng pháp độ đời. Còn như giáng phàm trong dòng dõi cao quý thì việc hoằng pháp sẽ có khế lý và khế cơ, do đó sẽ có kết quả tốt.

– Cha mẹ (màtara): Ðức Phật là thầy của Tam giới, cho nên cha mẹ của Ngài kiếp cuối phải là người đại duyên đại hạnh và đã từng có hạnh nguyện với nhau trong vô số lượng kiếp.

Sau khi quan sát năm điều thích hợp trên, Ngài đồng ý giáng sanh xuống trần gian để sau này thành đạo tiếp độ chúng sinh. Hôm đó là ngày thứ Năm, Rằm tháng Sáu, năm Dậu.

* Bồ tát xuất gia

Thông lệ chư Phật trong quá khứ, các vị Bồ tát kiếp cuối khi đản sanh 7 ngày thì người mẹ phải băng hà, hóa sanh vào cõi Trời Ðẩu xuất. Bồ tát Sĩ Ðạt Ta cũng ở trong thông lệ đó. Sau khi hoàng hậu Màya băng hà, kế mẫu Mahàpajàpàtigotamì chăm sóc thái tử chu đáo cho đến ngày thái tử vượt cung thành xuất gia.

Thái tử chào đời không được bao lâu, vua cha cho mời những vị thầy nổi tiếng về thiên văn địa lý đến xem tương lai của thái tử và đuợc họ trả lời, nếu thái tử ở hoàng cung sau này sẽ trở thành vua chuyển luân thánh vương, nếu xuất gia sau này sẽ trở thành bậc thầy của nhân thiên. Lời tiên tri này khiến cho vua cha vừa mừng vừa lo. Nhưng mừng thì ít mà lo thì nhiều. Trong lòng nhà vua suy nghĩ rồi mai này con ta đi xuất gia thì vương quốc này thuộc về ai?

Nỗi lo niềm sợ của nhà vua càng ngày càng thêm chồng chất, vì thái tử càng khôn lớn thì có những đặc tính khác phàm, thường hay trầm tư , thích yên tỉnh… Nhà vua báo cho bá quan văn võ hay biết về những đặc tính đó của thái tử , và họ đề nghị nhà vua nên tổ chức lễ cuới cho thái tử càng sớm càng tốt, vì điều đó có khả năng giữ chân thái tử ở hoàng cung. Ðức vua nghe vậy rất đắc ý. Thế là công chúa Da Du Ðà La (Yasodhara) ở một nước lân bang, con vua Thiện Giác (Suppabuddha), chính thức tuyển vào cung làm vợ của thái tử. Công chúa là một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, đức hạnh đoan trang, hoa hậu thời đó. Vua cho xây ba tòa nhà tiện nghi cung ứng với ba mùa thích hợp: mùa lạnh, mùa nóng và mùa mưa để cho thái tử và công chúa hưởng thụ những khoái lạc của trần thế. Vua cha rất mừng khi thấy con sống hạnh phúc êm đềm với Da Du.

Nhưng ai nào có ngờ đâu, sau chuyến du ngoạn bốn cửa thành, thái tử nhìn thấy được bản chất của cuộc đời là vô thường, tạm bợ. Ngài trở về hoàng cung với một nỗi buồn ê chề. Công chúa Da Du bạch hỏi: Sao thái tử buồn, thần thiếp có làm điều chi Phật ý thái tử chăng? Ngài đáp: Không, ta tưởng hạnh phúc của chúng ta sẽ vĩnh hằng mãi mãi, ta nghe trong ta, trong ái khanh và trong mọi người đều phải chịu sức tàn phá của búa thời gian. Dung nhan kiều diễm của ái khanh rồi sẽ bị mai một theo ngày tháng, tóc đen rồi sẽ bị phai màu… Tất cả đều giả tạm, như vậy cái gì là chân hạnh phúc? Ta quyết sẽ thoát ly để tìm một hướng đi đích thực cho ta và cho mọi người.

Hình ảnh bốn cửa thành lúc nào cũng ẩn sâu trong tâm khảm của Ngài – già, bệnh, chết và vị Sa môn, dường như lúc nào cũng thôi thúc Ngài phải thoát ly. Mười ba năm chung sống với Da Du rất hạnh phúc. Ngày Da Du hạ sanh Rahula (La-hầu-la) tưởng là ngày vui nhất của thái tử nhưng khi thái tử nghe tin này Ngài tự than, lại thêm một sợi dây trói buộc. Ngài than như vậy không phải là Ngài không thương vợ con mà Ngài nghĩ đến tình thương vạn loại. Chúng sinh hiện giờ lầm than đau khổ bởi màn vô minh, chỉ có Ngài mới có khả năng giúp họ vượt qua biển sanh tử luân hồi đó. Thừa cơ hội triều đình đang say sưa trong bữa tiệc vui mừng ngày hạ sanh Rahula, trong đêm đó Ngài quyết định cùng với Sa Nặc vượt cửa thành xuất gia vào nữa đêm. Ðó là ngày thứ Năm, Rằm tháng Sáu, năm Mẹo.

* Ðức Phật chuyển Pháp luân

Ðông cung thái tử Sĩ Ðạt Ta xuất gia năm 29 tuổi và thành đạo năm 35 tuổi. Khi giác ngộ, trời Phạm thiên Sahampati cung thỉnh Thế tôn vì lòng từ bi thuyết pháp độ đời. Ngài quan sát thế gian và nhận lời thuyết pháp. Ðầu tiên Ngài nghĩ sẽ thuyết pháp cho ai, người được nghĩ đến là đạo sĩ Alàrakàlàma và đạo sĩ Uddaka Ràmaputta, hai vị này là thầy dạy đạo cho Ngài khi còn là Bồ tát, nhưng Chư Thiên báo là hai vị này đã qua đời. Tiếp đến Ngài nghĩ đến năm người bạn Kiều Trần Như đồng tu khổ hạnh với Ngài và hiện giờ họ đang ở vườn Lộc Uyển Isipatana gần thành Ba La Nại (Bàrànasi).

Từ Bồ đề đạo tràng sang vườn Lộc Uyển rất xa, khoảng 18 do tuần, chư Phật trong quá khứ chuyển bánh xe Pháp lần đầu thường đi bằng thần thông. Nhưng đức Phật Thích Ca quan sát thấy du sĩ Upaka có duyên với Ngài, nếu Ngài đi bằng thần thông thì du sĩ sẽ không có cơ hội gặp gỡ Ngài, mặc dù cuộc hạnh ngộ với đức Phật ngắn ngủi nhưng là một túc duyên cho Upaka sau này giác ngộ. Chính vì thế nên Ngài quyết định đi bộ. Ðường xá xa xôi, đường đi hiểm trở, tất cả cũng vì tình thương và sự giác ngộ của chúng sinh. Không màng những khó khăn cực nhọc trên một đoạn đường dài như vậy và cuối cùng Ngài đến vườn Lộc Uyển đúng vào ngày Rằm tháng Sáu, năm Thân.

Khó khăn thay! Với tình thương dạt dào và tình nghĩa bao la đối với năm người bạn đồng tu như vậy. Ấy vậy mà, khi Ngài đến, chư vị giã vờ không tiếp đón Ngài nồng hậu, trái lại còn định cô lập và hắt hủi Ngài, nhưng Ngài rất bình thản, ung dung, tâm hồn rộng mở đối với các vị.

Tại sao là bạn thân tình với Ngài trong thời gian dài khổ hạnh, sao giờ đây các vị đối xử tệ với Ngài? Vì lẽ chung tu với nhau trong thời gian khá lâu các vị này thấy Sa môn Gotama tuyệt thực để khổ hạnh chỉ còn da bọc xương. Ðể rồi khi Ngài nghiệm ra pháp tu trung đạo, Ngài bỏ lối tu khổ hạnh, ngày ăn một buổi, tích cực thiền định để tìm chân lý giác ngộ. Ngay lúc Ngài bỏ lối tu khổ hạnh, chưa kịp giải thích thì năm người bạn của Ngài bất mãn và tự âm thầm ra đi, với tâm tự kiêu cho rằng Sa môn Gotama bây giờ không còn là vị chân tu chân chánh nữa. Mang những quan niệm sai lầm như thế nên khi thấy Ngài vừa đến tưởng như giờ đây Ngài Gotama buồn không ai phục vụ và tâm sự nên tìm đến họ. Như vậy các vị đó quyết định không tiếp Ngài. Nhưng với oai phong của vị Chánh Ðẳng Chánh Giác khi vừa ngự đến thì tất cả tâm tư của những vị này hoàn toàn thay đổi với ý nghĩ ban đầu, đồng thời các vị chia nhau mỗi người một việc tiếp rước Ngài như một người hầu. Mặc dù vậy nhưng các vị vẫn còn hoài nghi Ngài chưa phải là vị hoàn Toàn giác ngộ. Nếu tâm các vị này còn hoài nghi thì đức Phật Ngài không thuyết pháp. Do đó Ngài bảo các vị đừng có gọi Như Lai bằng tên tộc nữa vì Như Lai đã hoàn toàn giác ngộ, nhưng các vị vẫn không tin. Ðức Phật nói tiếp: Các thầy nghĩ kỹ lại xem từ trước đến giờ Như Lai có khi nào nói với các thầy như vậy không? Lúc đó năm anh em Kiều Trần Như bắt đầu suy nghĩ …. Khi thấy cơ duyên đã chín muồi, đức Phật bắt đầu thuyết pháp về đề tài Tứ diệu đế để tiếp độ năm vị này làm đệ tử đầu tiên. Ðây là bài pháp nồng cốt trong triết lý Phật giáo, cũng còn gọi là bài CHUYỂN PHÁP LUÂN.

Nội dung bài pháp đầu tiên, gồm có bốn vấn đề:

1. Khổ đế: trình bày tất cả những nỗi đau khổ trên trần gian
2. Tập đế: chỉ rõ nguyên nhân của đau khổ là Ái dục
3. Diệt đế: là trạng thái tịch tịnh, vắng lặng, Níp-bàn
4. Ðạo đế: là con đường Trung đạo có tám ngành.

Tứ diệu đế là pháp môn tu tập bao gồm toàn bộ giáo lý của Phật Thích Ca. Giáo pháp mặc dù nhiều nhưng đức Phật chỉ dạy có hai điều: khổ và diệt khổ. Lại nữa trong phần đạo đế, đức Phật trình bày xuyên suốt 37 phẩm trợ đạo bồ đề dành cho những chúng sinh nào hữu duyên tu tập theo từng pháp môn. Ðó là: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo. Cho nên bài pháp đầu tiên là bài giảng tổng thể và từ đó suốt 45 năm thuyết pháp Ngài chỉ triển khai đề tài này dưới nhiều góc độ khác nhau để tiếp độ chúng sinh.

Bố cục Tứ diệu đế được sắp xếp theo trình tự rất khoa học, logic và hệ thống chặt chẽ. Những học giả Tây phương từng tuyên bố, nghiên cứu Tứ diệu đế không những ở nội dung uyên thâm, mầu nhiệm mà còn cả kiến trúc, bố cục đặc thù của từng pháp môn. Bố cục Tứ diệu đế được trình bày như sau:

Ví dụ như chúng ta đang đứng trước một bức tranh gồm có hai phần chính, phần dưới có những sự bất công, khổ đau, bất hạnh, phiền toái… trong cuộc đời (khổ đế). Trong phần này tác giả cũng cho thấy nguyên của những thảm họa đó là nguồn gió của ái dục, tham sân si (tập đế).

Phần trên chúng ta thấy không gian thênh thang, êm ả, tĩnh lặng, cố nhiên là không có những sự bất công, rên siết, khóc than khổ lụy. Người ở đây bình tĩnh, vui tươi, hồn nhiên thanh bình không bị ái dục chi phối, tâm an lạc giải thoát (diệt đế).

Trong phần này chúng ta cũng nhìn từ dưới lên trên có những con đường đề chữ Bát chánh đạo, Tứ niệm xứ… (đạo đế).

Qua sơ đồ đó cho chúng ta thấy rằng lối trình bày của đức Phật rất tâm lý, thực tế và trí tuệ. Ðiều đó ví như có người bảo chúng ta lên đường ra đi, thì phải cho chúng ta biết rõ đi đến đâu, phải nêu mục đích đến như thế nào, rồi để chúng ta suy xét, lựa chọn có nên đi hay không. Nếu như chúng ta thấy mục đích ấy cao quý, đẹp đẽ, có triển vọng trong tương lai thì chúng ta mới hăng hái nỗ lực thực hiện mục đích trên.

Tóm lại, Ngài chỉ cho chúng sinh thấy niềm đau nỗi khổ trên cuộc đời và nguyên nhân đưa đến đau khổ. Ðồng thời Ngài giới thiệu sau khi hết khổ sẽ có hạnh phúc, an lạc, tự do và thoải mái và sau đó Ngài chỉ cho thấy những con đường phải đi để thành tựu được niềm hạnh phúc vĩnh cửu.

Kinh ghi lại trước khi Ngài bắt đầu thuyết pháp Tứ diệu đế, Ngài giảng hai điều mà các thầy cần phải tránh xa, đó là khổ hạnh và lợi dưỡng. Khổ hạnh ép xác thái quá và sống lợi dưỡng thái quá cũng không đưa đến giải thoát. Mà tránh xa hai con đường này đó là con đường Trung đạo. Kết quả sau thời giảng là năm vị Kiều Trần Như mở pháp nhãn, giác ngộ đạo quả Tu đà hườn và nhiều ngàn Chư Thiên trong tam giới đắc đạo chứng quả.

* Ðức Phật thị hiện song thông nhiếp phục ngoại đạo

Trong 30 tục lệ của chư Phật, dùng thần thông để nhiếp phục ngoại đạo là một trong ba mươi tục lệ đó. Ðã là tục lệ thì vị Phật tổ nào cũng phải thực thi đúng như vậy. Tục lệ có nghĩa là luật lệ, quy định, điều lệ đã định sẵn để dành cho những vị Phật tổ trong quá khứ, hiện tại và tương lai thi hành đúng niêm luật.

Cho nên câu chuyện Phật Thích Ca nhiếp phục ngoại đạo bằng thần thông là một chuyện bình thường vì đây chỉ là một việc làm kế thừa truyền thống của chư Phật. Trong thời đức Phật có tổng cộng sáu nhóm ngoại đạo. Những vị này đều có tuổi đời rất thâm niên và tín đồ vô cùng đông đảo. Tên của các vị này là:

– Purànakassapa
– Makkhaligosana
– Ajitakesakambala
– Sanjayavelatthaputta
– Pakuddhakaccayana
– Niganthanàtaputta

Từ khi đức Phật Thích Ca thành đạo dưới cội Bồ đề và Ngài thuyết pháp giảng đạo, có rất nhiều người hữu duyên tìm đến với Ngài. Pháp của Ngài giảng có hệ thống, tâm lý, triết học, hoàn hảo đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối, chúng sinh nào có duyên chắc chắn giác ngộ ngay trong kiếp hiện tiền. Do đó nhiều đệ tử của Phật Thích ca xuất gia, đắc đạo mặc dù họ đã có nhiều năm tu hành theo sáu vị lãnh đạo nêu trên. Các vị lãnh đạo đó nhìn thấy đệ tử của mình mỗi ngày mỗi ít, đa số đã từ giã mình đi theo thọ giới với Sa môn Cồ Ðàm. Không nói được, nhưng càng nhìn đệ tử từ giã ra đi lại càng thêm căm phẫn Phật Thích Ca. Thế nên hình ảnh Phật Thích Ca và đệ tử của Ngài là một sự căm thù đối với nhóm lục sư ngoại đạo trên. Mọi sinh hoạt của Ngài đều bị họ theo dõi để tìm khuyết điểm xuyên tạc, nhục mạ, hạ uy tín… nhưng tất cả đều như gió thoảng mây bay.

Sở dĩ có chuyện Phật dùng thần thông chiến thắng ngoại đạo là vì Ðại đức Pindolabhàradvàja vâng lời Ngài Mục Kiền Liên đi thâu bát trầm trên hư không của một vị trưởng giả. Có một ông trưởng giả tìm được một khối trầm, cho tạc thành một bình bát và ông ta treo giải thưởng nếu ai lấy được bát ông sẽ trọng thưởng và cả gia đình theo nương nhờ làm học trò. Nhóm lục sư ngoại đạo nghe vậy cho người môi giới đến xin nhưng ông từ chối. Họ nói với ông trưởng giả chẳng lẽ vì một cái bát mà phải dùng thần thông thì không xứng đáng. Họ tìm nhiều mưu mô để đoạt được bát trầm nhưng không được. Ông trưởng giả nghĩ rằng trong nước mình đang ở có nhiều tôn giáo họ tự xưng là A-la-hán cho nên ông treo giải thưởng như vậy người nào lấy được mới quả là A-la-hán. Nhưng bảy ngày trôi qua nhóm lục sư ngoại đạo không người nào thi hành theo tâm nguyện của ông trưởng giả.

Thế là một buổi sáng tinh sương, Ngài Mục Kiền Liên và Ngài Pindo vào thành khất thực nghe dân chúng đồn xôn xao về bình bát trầm của ông trưởng giả, nên Mục Kiền Liên bảo Ðại đức Pindo hãy đi thâu bát. Ông trưởng giả và dân chúng nhìn thấy tận mắt Ðại đức Pindo lấy bát, ông trong sạch và hoan hỷ cúng dường tứ sự. Từ chuyện lấy bát của Ðại đức Pindo, dân chúng kính trọng và sùng ái đệ tử Sa môn Gotama, và họ rủ nhau đến chùa đông đảo để tìm Ðại đức. Ðức Phật hay biết chuyện này nên Ngài kêu Ðại đức Pindo vào và cấm từ nay về sau, Ðại đức và chư Tăng không được tự tiện dùng thần thông trước quần chúng.

Khi đức Phật cấm chế điều luật đó, nhóm lục sư ngoại đạo hay biết được và cho người đi tuyên truyền rằng: đệ tử của Sa môn Gotama còn vì danh lợi nên mới đi lấy bát còn chúng tôi là A-la-hán không vì danh lợi nên không lấy bát theo lời yêu cầu của trưởng giả. Sa môn Cồ Ðàm còn đập bát và cấm chế điều luật, không cho đệ tử sử dụng thần thông. Do đó họ quyết định thi thố thần thông với ông Sa môn Cồ Ðàm.

Vua A Xà Thế hay tin ngoại đạo nói như vậy, vội vã vào yết kiến Thế tôn và bạch rõ vấn đề những vị lãnh đạo tôn giáo đó muốn thách thức so tài thần lực với Thế tôn. Ðức Thế tôn trầm lặng trong giây lát, Ngài nói với nhà vua rằng Như Lai đồng ý so tài thần thông với họ. Vua nói: – Bạch Thế tôn, còn việc Ngài cấm sử dụng thần thông thì sao? – Tâu Ðại vương, Như Lai cấm đệ tử chứ Như Lai đâu có cấm Như Lai đâu! Thế là đức Phật báo rõ địa điểm và thời gian để so tài thần thông với nhóm Lục sư ngoại đạo. Ngày đó là Rằm tháng Sáu tại Savatthì.

Khi ngoại đạo hay tin đức Phật đồng ý so tài thần thông với họ, nên họ rất sợ và hoang mang. Vì họ nghĩ rằng, Ngài cấm chế không cho đệ tử sử dụng thần thông thì chắc Ngài cũng không được phép sử dụng, ai ngờ bây giờ ông ta đồng ý đấu thần thông với chúng ta thì chúng ta tính sao đây? Nhưng dù sao thì đã lỡ công bố rồi! Nhóm Lục sư ngoại đạo cùng nhau kéo về Sàvatthì và họ kêu gọi tín đồ hùn tiền để xây tháp đài để so tài thần lực với Sa môn Gotama, nên họ thu được một số tiền rất lớn. Vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) hay biết tín đồ của nhóm lục sư ngoại lo lắng cho thầy như vậy Ngài cũng nao nao trong lòng. Hôm sau vua vào lễ Phật và xin Phật cho Ðại vương xây một tháp đài giống như ngoại đạo để Thế tôn so tài với họ. Ðức Phật khước từ và Ngài bảo sẽ hiện thần thông dưới gốc cây xoài.

Ngoại đạo biết được cuộc nói chuyện giữa đức Phật và vua Pasenadi, nên họ cho đệ tử chặt hết những cây xoài trong thành Savatthì. Ðã đến ngày giờ so tài với ngoại đạo, Phật ngự vào thành nhưng chưa đến thành thì có một người giữ vườn Thượng Uyển thấy xoài chín hái dâng cho Phật. Phật hoan hỷ thọ lãnh và tìm một chỗ thích hợp ngồi thọ xoài, còn hạt xoài Ngài bảo người giữ vườn đào lỗ trồng và chính tay Ngài tưới nước. Chẳng bao lâu hạt xoài mọc lên một cây xoài xanh tươi nhiều hoa lá và có nhiều trái thơm ngon.

Dân chúng đến tham dự cuộc so tài của đức Phật và ngoại đạo, họ thấy xoài có nhiều trái chín nên họ hái cùng nhau ăn. Họ ăn xoài thấy hương vị ngon lạ lùng, càng ngon họ càng nguyền rủa bọn ngoại đạo vô cớ chặt hết những cây xoài trong thành Sàvatthì, nên họ thấy bọn ngoại đạo ở đâu họ dùng hạt xoài ném vào bọn ngoại đạo. Ðúng là quả báo nhãn tiền.

Sắp đến giờ so tài, bọn ngoại đạo khủng hoảng tinh thần trước quần chúng. Liền sau đó đức Phật hóa một con đường bằng ngọc báu, rồi Ngài đi thiền hành trên con đường đó.Tiếp theo, Ngài hóa thân, từ một thân thành nhiều thân, lúc đó quần chúng thấy nhiều Phật, Phật ngồi, nằm hoặc hai vị thuyết pháp với nhau… Cuối cùng, Ngài hiện song thông (yamakapàtihàriya), với năng lực này chỉ có đức Chánh đẳng Chánh giác mới có thể thực hiện được. Thần thông này cùng một lúc hiện ra hai điều kỳ diệu: từ thân vừa phún tia nước, vừa phún tia lửa; từ thân phát hào quang xanh và đỏ… Trước uy lực của một vị Phật như vậy, bọn ngoại đạo kiếp sợ và rút lui chạy tán loạn chỉ còn lại dân chúng đang hướng về đức Phật thành kính lễ bái. Ðồng thời Ngài thuyết một bài pháp đúng vào tâm lý của từng chúng sinh, nên hôm đó Chư thiên và nhân loại đắc đạo chứng quả nhiều vô số kể.

Trong giây lát, đức Phật chiêm nghiệm bằng tuệ giải thoát, Ngài thấy chư Phật trong quá khứ sau khi dùng thần thông thắng ngoại đạo là ngự lên cõi Trời Ðạo Lợi thuyết pháp độ Phật mẫu bằng tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Hôm ấy đúng vào ngày Rằm tháng Sáu.

Từ việc đức Phật so tài với ngoại đạo giúp chúng ta có thêm những ý niệm về lời dạy của đức Phật như sau:

– Việc đức Phật thị hiện song thông để chiến thắng ngoại là một chuyện không phải chỉ dành riêng của Phật Thích Ca, mà các vị Phật tổ đều có hành động giống nhau. Lý do thì không thấy kinh điển chú giải thêm nhưng điều đó có thể là để khẳng định trước Tứ chúng về sự uy nghiêm và oai phong của một vị Phật tổ.

– Có thêm một luận cứ trong kinh tạng Nguyên thủy cho rằng đức Phật nhập hạ thứ Bảy trên cõi Trời và Ngài giảng Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) độ Phật mẫu. Căn cứ vào những điểm lịch sử trên, chúng ta không thể nào lãng quên ngày trăng tròn tháng Sáu âm lịch của Phật giáo, mặc dù ngày nay có một số quan niệm cho rằng tạng Vi Diệu pháp không phải do Phật thuyết mà do các vị Luận sư sau này viết ra… Phật giáo Nam tông thường có truyền thống, hằng năm cứ vào ngày này đều tổ chức một đêm đầu đà, để chư Tăng và Phật tử ôn lại ý nghĩa của những điểm lịch sử trên, hầu cúng dường đến đức Phật để gieo duyên lành giải thoát trong tương lai.

4. Ý nghĩa lễ hội Rằm tháng Bảy

Lễ hội Rằm tháng Bảy là một ngày lễ quan trọng của Phật giáo Bắc tông. Ðây là ngày Vu lan Báo hiếu, đồng thời là ngày mãn mùa An cư Kiết hạ (Tự tứ) của chư Tăng Phật giáo Ðại thừa. Tuy nhiên trong Phật giáo Nam tông, ngày này là ngày lễ bình thường, vì lịch sử của ngày này không thấy ghi trong kinh điển nguyên thủy. Phật giáo tại Việt Nam đã chịu nhiều ảnh hưởng của truyền thống Bắc tông trong gần hai ngàn năm lịch sử, nên ý niệm về ngày Rằm tháng Bảy đã ghi sâu vào trong tâm tư của quần chúng. Vì thế, Phật giáo Nam tông tại Việt Nam cứ đến mỗi độ thu về cũng hòa đồng trong sự lễ lạc chung với Phật giáo Bắc tông, cũng có tổ chức lễ Rằm tháng Bảy nhưng theo nghi thức riêng của hệ phái Nguyên thủy.

“Vu lan” tiếng Phạn gọi là Ullambana là cái chậu cứu nạn treo ngược, Bồn là tiếng Hán, nghĩa là dụng cụ đựng thức ăn. Vu lan bồn là pha tạp tiếng Hán lẫn tiếng Phạn, tức là dụng cụ cứu nạn treo ngược (hồn kẻ thác bị treo ngược ở âm phủ). Còn tiệc Vu lan bồn là thức ăn để trong chậu đem cúng dường với chư Tăng nhân ngày Rằm tháng Bảy để các Ngài nhân danh Tam bảo cầu nguyện cho vong hồn khỏi bị đọa ở cảnh ngạ quỷ. Còn về nguồn gốc của kinh Vu-lan là do vị sư người gốc Tây Trước tên Hộ Pháp (Dharmaraksa) đời Tây Tấn, thế kỷ thứ ba hoặc thứ tư dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán.

Trong kinh này, đức Phật khuyên người tại gia nên cầu siêu cho thân bằng quyến thuộc đã quá vãng và cầu an cho thân bằng quyến thuộc còn hiện tiền nhân ngày Rằm tháng Bảy. Kinh còn đề cập đến một chi tiết quan trọng nữa là khi Ngài Mục Kiền Liên đắc đạo, Ngài nhớ đến công ơn mẹ, dùng thần thông quan sát tìm mẹ, thấy mẹ đã sanh vào cõi ngạ quỷ. Ngài thương tiếc, mang cơm xuống dâng mẹ nhưng người mẹ không ăn được. Khi về thế gian, Ngài đem chuyện này bạch Phật và Phật dạy hãy chờ đến rằm tháng Bảy khi chư Tăng mãn hạ hội về, Mục Kiền Liên làm phước hồi hướng cho mẹ thì người mẹ mới có thể nhận được phước báu.

Trong khoảng thập niên 1960, kể từ khi quyển sách “Bông hồng cài áo” ra đời, phát sinh thêm một nghi thức mới lạ trong ngày rằm tháng bảy, rất đặc thù, làm sống động hình ảnh của cha mẹ, hai đấng sinh thành dưỡng dục. Mặc dù nghi thức đó – qua quyển sách trên – chịu ảnh hưởng văn hóa của Nhật Bản nhưng được nhiều người tán đồng, cho rằng có ý nghĩa, đáng được phát huy và duy trì. Những người tham dự lễ đều được cài trên áo một bông hồng theo từng hoàn cảnh khác nhau. Nếu cha mẹ còn sinh tiền thì được cài trên áo một bông hồng màu đỏ thắm. Nếu như mất mẹ thì được cài hoa hồng màu trắng. Cảm động là ở chỗ nhìn thấy người khác hoặc mình khi có cài trên áo một bông hồng màu trắng thì cảm thấy xót xa thân phận mất mẹ hiền, thông cảm với người đồng phận, và cảm thấy chạnh lòng thương nhớ bà mẹ vô cùng. Chính vì thế ngày Rằm tháng Bảy trở thành ngày lễ hội quan trọng cả hai giới tại gia lẫn xuất gia. Cứ đến ngày này chư vị cư sĩ sắm sửa món ngon vật lạ đem cúng dường Tam bảo để cầu an cho gia đạo và cầu siêu cho cửu huyền thất tổ đã quá vãng. Còn đối với người xuất gia, ngày này đánh dấu ngày tăng thêm một tuổi đạo và xứng đáng thọ lãnh quả báu cúng dường y phục và tứ vật dụng của đàn na tín thí.

Một điều ghi nhận ở đây là trong kinh tạng nguyên thủy, không thấy có bộ kinh nào tương đương với quyển kinh Vu lan bồn của Bắc tông. Không biết những nhà kết tập kinh điển nguyên thủy có lược bỏ một số kinh văn nào hay không, hay kinh này là do phong trào phát triển Phật giáo trước tác thêm vào sau này. Một điều khó hiểu này là tại sao đức Phật lại khuyên Ngài Mục Kiền Liên muốn trả hiếu cho mẹ phải đợi đến rằm tháng Bảy? Chắc có lẽ là vào ngày này, khi chư Tăng mãn mùa an cư nên Tăng chúng đông đảo và phước báu sẽ nhiều hơn. Nhờ oai lực đó thì cầu nguyện dễ siêu thoát. Thế nhưng, theo giới luật Phật giáo Nam tông, chư Tăng nhập hạ ngày rằm tháng Sáu và ra hạ vào ngày rằm tháng Chín. Như thế, nếu Phật tử trong truyền thống Nam tông tin theo quyển kinh Vu lan bồn thì họ phải điều chỉnh lại ngày Vu lan báu hiếu đến ngày rằm tháng Chín chứ không phải rằm tháng Bảy.

Có một quyển sách tựa đề “Cuộc đời tôn giả Mục Kiền Liên” do học giả người Ðức Hellmuth Hecker biên soạn rất công phu, đã được dịch giả Nguyễn Ðiều dịch sang Việt ngữ, Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành trong mấy năm qua. Quyển sách tuy mỏng, nhưng độc giả sẽ nhận thấy người viết đọc hiểu kinh tạng nguyên thủy rất uyên thâm, viết về cuộc đời và đạo hạnh của tôn giả Mục Kiền Liên rất đầy đủ, đồng thời khi đề cập đến phần nào đều có trích dẫn kinh điển nghiêm túc. Ðọc tác phẩm này thì lại không thấy đề cập chi đến kinh Vu lan bồn, hoặc về chuyện Ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ ở địa ngục, v.v. Thêm nữa, Ðạo Phật là đạo dựa trên nền tảng lý nhân quả và nghiệp báo. Ðức Phật từng tuyên bố gieo giống nào gặt quả nấy. Ngài đã trầm lặng, không thể can cứu khi hay biết vua Thiện Giác (cha vợ) bị đất rút và dòng họ Thích Ca bị tàn sát. Ngài có nhiều phép thần thông siêu xuất trong tam giới này nhưng qua kinh điển, Ngài vẫn phải để cho nghiệp lực chúng sinh trổ quả theo chu trình tự nhiên. Mặc dù biết trước việc tàn sát dòng họ Thích Ca, và đã hơn hai lần đến thương lượng ngăn cản chiến tranh, cuối cùng thì Ngài cũng không giúp được gì hơn, bởi vì nghiệp dòng họ Thích Ca gieo trong kiếp quá khứ nay đến chu kỳ phải trả quả. Cho rằng Ngài Mục Kiền Liên dù là một đại thánh tăng đã đắc quả A-la-hán, có nhiều thần thông mà vẫn không cứu mẹ được, phải nhờ đến đại chúng Tăng cùng cầu nguyện mới cứu được, có thể sẽ dễ đưa đến một ngộ nhận cho rằng bây giờ chúng ta không cần phải tu tập tâm tánh, cứ tự do làm tội lỗi và cố dành dụm một số tiền lớn để lại cho thân nhân, và nhờ họ sau khi ta qua đời, nhớ rước thầy đông đảo để  cầu nguyện cho siêu thoát. Một quan niệm như thế có thể sẽ có những hậu quả tiêu cực, không có lợi chi trên con đường tu tập giải thoát.

Về mặt sử liệu và kinh điển của các truyền thống thì có mâu thuẫn đôi chút như thế. Nhưng về mặt hướng thiện, đạo đức của quần chúng Phật tử thì việc tổ chức ngày Rằm tháng Bảy rất hữu ích. Việc này giúp cho người tại gia lẫn xuất gia có một ngày trọn vẹn để tưởng nhớ đến hai đấng sanh thành dưỡng dục của cha mẹ, giúp họ có ý thức vững chắc để hành thiện, bố thí, đền đáp công ơn trời biển của cha và mẹ.

Hòa nhịp trong sinh hoạt chung của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đến rằm tháng bảy mỗi chùa Nam tông đều tổ chức lễ đặt bát hội cho chư Tăng. Nghi lễ thường là người Phật tử sắm thực phẩm và tứ sự như cơm, nước, trái cây … để đợi đến giờ chư Tăng xếp hàng đi chậm rãi trong chánh niệm, theo thứ tự trưởng hạ, Phật tử thành kính để thức ăn vào trong bình bát của chư Tăng. Chư Tăng hoan hỷ thọ nhận và đọc kinh Phúc chúc để Phật tử thành tâm chú nguyện chia đều phần phước này thấu đến thân bằng quyến thuộc đã quá vãng, rồi sau đó Phật tử cùng đọc kinh hồi hướng. Chương trình lễ thường có buổi thuyết giảng của chư Tăng để người Phật tử hôm đó được dịp ôn lại trọn vẹn hình ảnh công ơn bao la của cha mẹ, để thấy rằng bổn phận làm con là phải đáp đền công ơn cao cả này.

Thêm vào đó, người Phật tử Nam tông cũng cần hiểu rằng việc trả hiếu phải thực hiện trong bất cứ ngày, tháng, năm nào chứ không phải đợi đến rằm tháng Bảy. Ví như người thân chúng ta thiếu nước thì chúng ta phải cung cấp cho họ ngay. Trong kinh Tăng chi, Phật dạy người con chí hiếu phải phụng dưỡng cha mẹ lúc còn sinh tiền những nhu cầu vật chất, không làm cha mẹ phiền lòng, thậm chí nếu cha mẹ không hiểu đạo thì người con phải cố gắng an trú cha mẹ vào trong chánh pháp, khi cha mẹ qua đời mới hồi hướng phước cho cha mẹ. Chứ không phải lúc cha mẹ còn sống thì người con ăn nói thô lỗ, bất hiếu, đến khi cha mẹ qua đời thì lại khóc lóc, cầu trời vái Phật, hoặc đi nhiều kiểng chùa để cầu siêu cho cha mẹ, vì rằng làm như thế cũng sẽ không có kết quả chi cả!

Tóm lại, hành lễ ngày Rằm tháng Bảy hằng năm là để nhắc nhở những người con nam nữ phải nhớ đến công ơn vô bờ bến của cha mẹ. Nếu cha mẹ còn sinh tiền thì người con nên mua món quà nào đó để kính dâng lên Ba má để nhớ đến ơn nghĩa sinh thành, để tự nhắc nhở đến sự hiện hữu vi diệu của một niềm hạnh phúc rất đáng giá, ghi khắc trong tâm và tự hứa với đất trời không thể quên lãng người cha yêu dấu, người mẹ hiền thân thương. Nếu như người đã ngàn thu vĩnh biệt thì người con phải làm phước, bố thí, trì giới, tham thiền và lập trai đàn cầu siêu cho cha mẹ. Trên nền tảng căn bản đó, người Phật tử luôn ghi nhớ trong tâm: hiếu hạnh là truyền thống của chư Phật. Vì thế bổn phận làm con phải nhớ đến ơn nghĩa sinh thành và phải đáp đền trong muôn một. Không phải đợi đến ngày Rằm tháng Bảy mới nhớ đến công ơn của cha mẹ mà phải suốt đời, suốt năm, suốt tháng, chúng ta đáp đền công ơn hiếu dưỡng của hai đấng sinh thành.

5. Ý nghĩa lễ hội Rằm tháng Chín

Rằm tháng Chín âm lịch là ngày mãn mùa An cư Kiết hạ (tự tứ) của chư Tăng Nam tông, đồng thời là khởi điểm mùa dâng y Kathina trong một tháng, từ 16- 9 đến 15-10 âm lịch. Có thể nói trong một năm, chư Tăng và Phật tử rộn rịp, tưng bừng và hoan hỷ trong ngày Rằm này, với người tại gia cư sĩ chuẩn bị lễ phẩm, tứ vật dụng cúng dường chư Tăng và tham gia dự lễ dâng y các chùa Phật giáo Nguyên thủy. Chư Tăng lại càng hoan hỷ hơn vì ngày này đánh dấu thêm một tuổi đạo.

Phật giáo Nam tông căn cứ theo lịch của Ấn Ðộ nên nhập hạ vào ngày15-6 âm lịch còn Phật giáo Bắc tông căn cứ theo lịch của Trung Hoa nên nhập hạ vào ngày 15-4 âm lịch. Cả hai bộ phái đều trung thành với quan niệm truyền thống của mình, nhập hạ đúng theo quy định truyền thống và ngày ra hạ đều gọi là ngày Tự tứ (Pavàràna).

Tự tứ là buổi lễ được tổ chức vào ngày mãn mùa an cư kiết hạ, tiếng Pàli gọi là Pavàràna, nghĩa là “thỉnh cầu, tùy ý”. Do đó, ngày Tự tứ là ngày thỉnh những vị Tỳ kheo đồng phạm hạnh nói rõ những sai lầm, khuyết điểm dù thấy, nghi hoặc nghe về giới hạnh của mình trước sự chứng minh của chư Tăng để sám hối. Ðây là một hình thức rất tốt trong Phật giáo, mặc dù là giới luật ngày xưa nhưng vẫn không lạc hậu với xã hội đương đại. Hình thức này nói lên tinh thần tập thể góp ý, phê bình cá nhân, và cá nhân tiếp nhận ý kiến sửa đổi và hứa sẽ không tái phạm.

Nghi thức sám hối (Parisuddhi) là một công việc của các vị tỳ kheo phải thực hiện thường xuyên một tháng hai lần, vào ngày 15 và 30 trước khi cử hành lễ Bố tát (Uposatha). Như vậy một năm có 24 lần các Tỳ kheo cử hành lễ sám hối và Bố tát, nhưng các vị cử hành chỉ một lần lễ Tự tứ duy nhất trong năm. Sám hối là nghi thức nêu ra những lỗi lầm của mình do vô tình hay cố ý phạm những học giới với một vị Tỳ kheo cùng phạm hạnh, đồng thời thời điểm đó vị Tỳ kheo ấy cũng sám hối những lỗi lầm của mình cho vị Tỳ kheo bạn. Sau đó nếu trong tự viện có khoảng 4 vị Tỳ kheo trở lên thì các vị bắt đầu cử hành lễ Bố tát. Nghi thức lễ Bố tát là một vị Tỳ kheo thông thạo giới luật đại diện chư Tăng trùng tuyên lại tất cả giới luật của các vị Tỳ kheo. Mục đích là giúp các vị ôn lại tất cả giới luật mà mình đã thọ trì, nếu vi phạm thì các vị lập tức sám hối trước Tăng chúng, hoặc chịu hành phạt tùy theo giới luật vi phạm. Lễ sám hối, Bố tát và Tự tứ là do đức Phật chế định khi Ngài còn tại thế, Sau khi thành đạo, Ngài đi hoằng dương giáo hóa, thành lập Tăng đoàn để hành đạo. Chúng ta có thể xem thêm phần này trong Tương ưng bộ kinh và Luật tạng.

Ngày 15 tháng Chín âm lịch cũng là ngày các chùa của Phật giáo Nguyên thủy tổ chức lễ ra hạ. Lễ này thường do Phật tử thí chủ dâng y tổ chức. Chương trình rất đơn giản, thông thường là tổ chức một buổi trai tăng cúng dường đến chư Tăng an cư kiết tại bổn tự và mời các Phật tử khác cùng đến tham dự. Thật ra, buổi lễ này là do vị thí chủ dâng y tổ chức để tiễn chư Tăng ra hạ chứ không có liên hệ gì đến điều kiện giới luật đã quy định.

Sau khi chư tăng ra hạ, đức Phật cho phép được tổ chức một ngày lễ dâng y trong vòng một tháng từ 16 tháng Chín âm lịch đến 15 tháng Mười âm lịch. Ðiểm đáng lưu ý là trong một năm chỉ được tổ chức lễ dâng y một lần trong một tháng, một tháng chỉ được tổ chức một ngày. Tại sao khi ra hạ, đức Phật cho phép tổ chức dâng y một ngày trong vòng một tháng không hơn không kém? Lý do Ấn Ðộ chỉ có ba mùa: mùa lạnh, nóng và mưa, như vậy mỗi một mùa có bốn tháng. Nhập hạ chỉ có ba tháng, thế nên còn một tháng chư Tăng cũng không tiện vân du hoằng pháp mà phải ở lại tu viện cho hết mùa mưa. Do đó tháng này là tháng thích hợp để tổ chức dâng y. Nếu không còn trong phạm vi của tháng dâng y mà tổ chức dâng y thì không thành tựu quả báu Kathina.

Ðiều kiện được nhận y Kathina là vị tăng ấy phải nhập hạ liên tục ba tháng tại đây không bị đứt hạ, phải có 5 vị Tỳ kheo trở lên, 4 vị làm tăng để giao y Kathina, một vị thọ y. Vị Tỳ kheo được thọ y Kathina là vị có y đã cũ rách hoặc vị đó do tăng chúng đề cử. Phương pháp thọ y Kathina khác biệt hơn cách thọ tứ sự cúng dường của đàn na tín thí. Thông thường, khi nhận những tứ sự cúng dường khác, chư Tăng thọ bằng thân và khẩu. Trái lại, khi nhận tăng y Khathina, chư Tăng thọ bằng tâm chứ không thọ bằng lời. Những thủ tục trên đã hội đủ, chư Tăng hội họp nhau trong ranh giới Simà và chỉ định hai vị tuyên ngôn trình tăng rằng: – “Bạch hóa Ðại đức tăng nay tăng y đã phát sanh đến Tăng rồi, nay tăng giao y Kathina đến Tỳ kheo… nếu các vị hoan hỷ thì làm thinh, lần thứ nhì …, lần thứ ba… Y cứ làm thinh của chư Tăng tăng y giao cho Tỳ kheo … thọ.”

Khi tuyên ngôn giao tăng y đến vị Tỳ kheo… thì vị ấy chỉ thọ một trong 3 y, đó là Tăng già lê, hoặc y vai trái, hoặc y nội, chứ không được thọ 3 y. Nếu thọ y nào thì vị ấy phải xả y cũ và nguyện y mới. Bên cạnh ấy, những vị đồng nhập hạ nói lên lời tùy hỷ. Nói lời tùy hỷ trước chư Tăng vừa dứt thì tất cả những vị nhập hạ đều hưởng năm quả báu. Ðiểm này khác biệt hơn những việc làm phước khác. Thường người làm phước thì hưởng phước báu, nhưng đặc biệt trong dịp lễ dâng y người thọ y cũng hưởng năm quả phước. Năm quả báu này giúp cho vị Tỳ kheo thuận lợi trong việc tu học, thọ thực, đi lại.

Quang cảnh buổi lễ dâng y thật hoan hỷ. Mỗi chùa thường có thí chủ hoặc thí chủ tập thể. Họ sắm y phục và những thứ vật dụng phụ tùng cần thiết của các vị Sa môn, tất cả đều mang đến chùa, trước khi dâng cúng đến chư Tăng, Phật tử thường tỏ lòng tôn kính nên đội tất cả những lễ phẩm tứ sự đó đi nhiễu ba vòng chánh điện. Không khí rất vui tươi và đầy hoan hỷ của những tâm hồn mộ đạo. Trong một tháng dâng y, thông thường Phật giáo Nam tông Việt Nam sắp xếp mỗi chùa tổ chức một ngày dâng y, do đó chư Tăng và Phật tử luân phiên nhau tham dự lễ dâng y. Nghi thức tổ chức dâng y các chùa của Phật giáo Nam tông đều thống nhất nhau trên mặt giáo luật, cho nên khi tham dự lễ chúng ta thấy tiến trình lễ diễn tiến đều giống nhau.

Tỳ kheo THÍCH THIỆN MINH
Tháng 05-2001

-ooOoo-

Cư sĩ Lê Thị Lộc

Cư sĩ Lê Thị Lộc
(Cô Bảy Vĩnh Phúc)
1923-2007

Cô là dòng suối mát, cuốn trôi đi những ưu tư và phiền não của cuộc đời. Mỗi khi nghĩ đến Cô, như cảm thấy cả một bầu trời êm ái của tình thương và lòng vị tha.

Đó là cô Lê Thị Lộc, pháp danh Định Tri, tên thường gọi là Cô Bảy Vĩnh Phúc. Cô sinh ngày 27 tháng 01 năm 1923, tại Vĩnh Long, trong một gia đình đủ song thân và 8 anh chị em (4 trai, 4 gái), Cô là người con thứ bảy. Ở trường, Cô là người học trò ngoan và giỏi. Ngay từ lúc còn nhỏ, Cô đã biết kính Thầy và thương bạn.

Hết bậc trung học, Cô tiếp tục tiến thân bằng tài trí của mình và Cô đã toại nguyện, khi danh sách trúng tuyển của trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia đã có tên Cô.

Qua mùa hè năm 1940, Cô từ giả song thân lên Sài Gòn, học chuyên ngành Nữ Hộ Sinh. Cuộc đời và sự nghiệp của Cô hầu như âm thầm tiến phát như dòng sông nhỏ chảy ra biển lớn.

Sự nghiệp của Cô bắt đầu thành đạt vào năm 1956. Dù đường công danh của Cô đã vững chắc trên đỉnh cao, nhưng Cô không hề nghĩ tới một gia đình riêng cho chính mình. Cô luôn luôn hành trì trong thiện pháp, giúp đỡ mọi người. Từ anh em, con cháu, họ hàng gần xa đến người dưng kẻ lạ, Cô cũng đều mở rộng vòng tay ưu ái.

Cô như là tàng cây lớn nơi mọi người nghĩ chân khi đi trên đường dài mệt mõi, là mái nhà che mưa, che nắng cho những ai côi cúc thiếu tình thương, và còn là đôi tay thầy thuốc cho những người bệnh hoạn.

Nhờ có đạo tâm mạnh, nên Cô có phước duyên đến tu học với Ngài Hoà thượng Tịnh Sự, một vị chân tu đức độ, tài giỏi, giới hạnh trong sạch. Ngài Tịnh Sự dạy rất nhiều học trò, xuất thân từ nhiều hoàn cảnh gia đình khác nhau, cư sĩ lẫn tu sĩ. Cô là một trong những học trò thường xuyên đến học giáo lý với Ngài, nhất là về Vi Diệu Pháp. Cô tinh tấn nỗ lực theo học bên Ngài, với bản tính ân cần và khiêm tốn suốt gần 20 năm.

Sau khi Ngài Tịnh Sự viên tịch, Cô luôn nhớ ơn Thầy. Hằng năm đến ngày giỗ Ngài, Cô thường nhắc: “Năm nay là giỗ lần thứ nhất, …, giỗ lần thứ 17 của Ngài”, chỉ cần nhớ giỗ lần thứ mấy cũng là một sự sâu sắc nói lên tấm lòng của Cô, luôn nhớ đến vị Thầy đã quá cố.

Để trả ơn Thầy, Cô mở các khóa học Vi Diệu Pháp, hướng dẫn một số tu sĩ và cư sĩ Phật tử về môn giáo lý mà trước đó Ngài Tịnh Sự đã chỉ dạy cho Cô. Cô đã đào tạo rất nhiều thế hệ học viên trong suốt 30 năm.

Theo dòng thời cuộc với những năm tháng khó khăn, Cô không chút nản lòng, vẫn thường xuyên lui tới chùa hộ trợ chư Tăng, từ thuốc men đến vật thực. Có khi Cô đi từ Sài Gòn đến các chùa ở Long Thành với phương tiện vận chuyển là chiếc xe chạy bằng than đốt, trong xe chỉ có một ít lương thực như: gạo, tương, đường, đậu, mắm, muối, nhưng với cả một tấm lòng thành kính của Cô và một số Phật tử thân tín.

Ở Cô, lúc nào việc thân thiện, kính quý đầu tiên đối với chư Tăng là cái chấp tay cung kính cùng với nụ cười đầy lòng nhân ái, còn với đối Phật tử và người quen biết, ánh mắt, nụ cười của Cô là cả một tâm từ rộng mở.

Suốt cuộc đời của Cô sinh ra, lớn lên và thành đạt hầu như chỉ để hộ Tăng và giúp đỡ mọi người. Lúc nào Cô cũng giản dị với chiếc áo bà ba trắng. Cô không hề có gì cho riêng mình, nhưng Cô đã bố thí, giúp đỡ cho người khác rất nhiều. Với với tâm từ mở rộng, Cô đã tích cực đóng góp từ tinh thần đến vật chất, từ lúc khó khăn đến lúc thành đạt, đến nhiều vị Tăng, Tu nữ, nhiều chùa, cũng như nhiều Phật tử cư sĩ. Khi nói đến Cô, hầu hết những người đã quen biết Cô đều có sự kính trọng, quý mến trong lòng.

Chiều ngày 29 cuối năm Giáp Thìn (2001), Cô ngã bệnh sau khi đã lo chu toàn vật thực cho buổi lễ Đặt Bát Chư Tăng vào sáng Mồng Một Tết.

Sau 6 năm lâm trọng bệnh, Cô an nhiên tự tại nhắm mắt thanh thản ra đi vào sáng ngày Mồng Hai Tết, năm Đinh Hợi (2007), trong sự tiếc thương vô hạn của chư Tăng, Tu nữ và Phật tử cùng với thân bằng quyến thuộc và những người quen biết.

Không bút mực nào có thể diễn tả đầy đủ về cuộc đời của Cô. Xin thầm lặng trong thương kính, thắp nén hương lòng mãi mãi hướng về Cô.

Nhớ về người Thầy, người Cô kính yêu,
Đầu xuân Đinh Hợi (2007),
Lê Thị Mỹ

-ooOoo-